CÔNG
ƯỚC CỦA LIÊN HỢP QUỐC VỀ LUẬT BIỂN
(Ký
kết ngày 10 tháng 12 năm 1982)
CÁC
QUỐC GIA THÀNH VIÊN CỦA CÔNG ƯỚC
Với lòng mong
muốn giải quyết, trên tinh thần hiểu biết và hợp tác với nhau, mọi vấn đề liên
quan đến luật biển, và ý thức được tầm vóc lịch sử của Công ước là một cống
hiến quan trọng vào việc giữ gìn hòa bình, công lý và tiến bộ cho tất cả các
dân tộc trên thế giới;
Nhận thấy rằng,
những sự kiện mới nảy sinh kể từ các Hội nghị của Liên hợp quốc về luật biển
được nhóm họp tại Giơnevơ năm 1958 và năm 1960, đã làm tăng thêm sự cần thiết
phải có một Công ước mới về luật biển có thể được mọi người chấp nhận;
Ý thức rằng,
những vấn đề về các vùng biển có liên quan chặt chẽ với nhau và cần được xem
xét một cách đồng bộ;
Thừa nhận rằng,
điều đáng mong muốn là, bằng Công ước với sự quan tâm đúng mức đến chủ quyền
của tất cả các quốc gia, thiết lập được một trật tự pháp lý cho các biển và đại
dương làm dễ dàng cho việc sử dụng công bằng và hiệu quả những tài nguyên, việc
bảo tồn những nguồn lợi sinh vật của các biển và các đại dương, việc nghiên
cứu, bảo vệ và gìn giữ môi trường biển Cho rằng, việc thực hiện các mục tiêu
này sẽ góp phần thiết lập nên một trật tự kinh tế quốc tế đúng đắn và công
bằng, trong đó có tính đến các lợi ích và nhu cầu của toàn thể loài người và
đặc biệt là các lợi ích và nhu cầu riêng của các nước đang phát triển, dù có
biển hay không có biển;
Mong muốn phát
triển bằng Công ước, các nguyên tắc trong Nghị quyết 2749 (XXV) ngày 17 tháng
12 năm 1970, trong đó Đại hội đồng Liên hợp quốc đã đặc biệt trịnh trọng tuyên
bố rằng khu vực đáy biển và đại dương, cũng như lòng đất dưới đáy các khu vực
nằm ngoài giới hạn chung của loài người và việc thăm dò, khai thác khu vực này
sẽ được tiến hành vì lợi ích của toàn thể loài người, không phụ thuộc vào vị
trí địa lý của các quốc gia;
Tin tưởng rằng,
việc pháp điển hóa và sự phát triển theo chiều hướng tiến hóa của Luật biển
được thực hiện trong Công ước sẽ góp phần tăng cường hòa bình, an ninh, hợp tác
và quan hệ hữu nghị giữa tất cả các dân tộc phù hợp với các nguyên tắc công
bằng và bình đẳng về quyền, và sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho tiến bộ về kinh
tế và xã hội của tất cả các dân tộc trên thế giới, phù hợp với các mục tiêu và
các nguyên tắc của Liên hợp quốc như đã được nêu trong Hiến chương;
Khẳng định
rằng, các vấn đề không quy định trong Công ước sẽ tiếp tục được xử lý bằng các
quy tắc và nguyên tắc của pháp luật quốc tế chung;
Đã thỏa thuận
như sau:
PHẦN I
. MỞ ĐẦU
ĐIỀU 1. Sử dụng
các thuật ngữ và phạm vi áp dụng
1. Những thuật ngữ
được sử dụng trong Công ước cần được hiểu như sau:
1. “Vùng” (Zone):
là đáy biển và lòng đất dưới đáy biển nằm bên ngoài giới hạn quyền tài phán
quốc gia;
2. “Cơ quan quyền
lực” (Autorité): là cơ quan quyền lực quốc tế về đáy biển;
3. “Các hoạt động
được tiến hành trong Vùng” (activités menées dans la Zone): là mọi hoạt động
thăm dò và khai thác các tài nguyên của Vùng;
4. “Ô nhiễm môi
trường biển” (Pullution du milieu marin): là việc con người trực tiếp hoặc gián
tiếp đưa các chất liệu hoặc năng lượng vào môi trường biển, bao gồm cả các cửa
sông, khi việc đó gây ra hoặc có thể gây ra những tác hại như gây tổn hại đến
nguồn lợi sinh vật, và đến hệ động vật và hệ thực vật biển, gây nguy hiểm cho
sức khỏe con người, gây trở ngại cho các hoạt động ở biển, kể cả việc đánh bắt
hải sản và các việc sử dụng biển một cách hợp pháp khác, làm biến đổi chất
lượng nước biển về phương diện sử dụng nó và làm giảm sút các giá trị mỹ cảm
của biển;
5. a) “Sự nhận chìm” (immersion) là:
i. mọi sự trút bỏ có ý thức xuống biển các chất thải hoặc các chất khác từ
các tàu thuyền, phương tiện bay, giàn nổi hoặc công trình khác được bố trí ở
biển.
ii. mọi sự đánh chìm tàu thuyền, phương tiện bay, giàn nổi hoặc các công
trình khác được bố trí ở biển.
b) Thuật ngữ “nhận chìm” không nhằm vào:
i. việc vứt bỏ các chất thải hoặc các chất khác được sản sinh trực tiếp
hoặc gián tiếp trong việc khai thác bình thường của tàu thuyền, phương tiện
bay, giàn nổi hoặc các công trình khác được bố trí trên biển, cũng như các
thiết bị của chúng, ngoại trừ các chất thải hoặc các chất khác được chuyên chở
hoặc chuyển tài trên các tàu thuyền, phương tiện bay, giàn nổi hoặc các công
trình khác bố trí ở biển được dùng để thải bỏ các chất đó, trên các tàu thuyền,
phương tiện bay, giàn nổi hay các công trình đó tạo ra;
ii. việc tàng chứa các chất với mục đích không phải chỉ là để thải bỏ chúng
với điều kiện là việc tàng chứa này không đi ngược lại những mục đich của Công
ước.
2.1 “Các quốc gia thành viên” (Etats Parties) là những quốc gia đã chấp nhận
sự ràng buộc của Công ước và Công ước có hiệu lực đối với các quốc gia đó.
2. Công ước được áp dụng mulatis mutandis (với những thay đổi cần thiết về
chi tiết) cho những thực thể nói trong Điều 305 khoản 1, điểm b, c, d, e và f
đã trở thành thành viên của Công ước, theo đúng với các điều kiện liên quan đến
từng thực thể; trong giới hạn đó, thuật ngữ “quốc gia thành viên” cũng dùng để
chỉ những thực thể này.
PHẦN II. LÃNH HẢI VÀ VÙNG TIẾP GIÁP
Mục 1
CÁC QUY ĐỊNH CHUNG
ĐIỀU
2. Chế độ pháp lý của lãnh hải và vùng trời ở trên lãnh hải cũng như đáy và
lòng đất dưới đáy của lãnh hải
Chủ quyền của quốc gia ven biển được mở rộng ra ngoài lãnh thổ và nội thủy
của mình, và trong trường hợp một quốc gia quần đảo, ra ngoài vùng nước quần
đảo, đến một vùng biển tiếp liền, gọi là lãnh hải (merterritoriale)
Chủ quyền này được mở rộng đến vùng trời trên lãnh hải, cũng như đến đáy và
lòng đất của biển này.
Chủ quyền của Công ước và các quy tắc khác của pháp luật quốc tế trù định.
Mục 2
RANH GIỚI CỦA LÃNH HẢI
ĐIỀU 3. Chiều rộng của lãnh hải
Mọi quốc gia đều có quyền ấn định chiều rộng lãnh hải của mình; chiều rộng
này không vượt quá 12 hải lý kể từ đường cơ sở được vạch ra theo đúng Công ước.
ĐIỀU 4. Ranh giới phía ngoài của lãnh hải
Ranh giới phía ngoài của lãnh hải là một đường mà mỗi điểm ở trên đường đó
cách điểm gần nhất của đường cơ sở một khoảng cách bằng chiều rộng của lãnh
hải.
ĐIỀU 5. Đường cơ sở thông thường
Trừ khi có quy định trái ngược của Công ước, đường cơ sở thông thường dùng
để tính chiều rộng lãnh hải là ngấn nước triều thấp nhất dọc theo bờ biển, như
được thể hiện trên các hải đồ tỷ lệ lớn đã được quốc gia ven biển chính thức
công nhận.
ĐIỀU 6. Các mỏm đá (recifs)
Trong trường hợp những bộ phận đảo cấu tạo bằng san hô hoặc các đảo có đá
ngầm ven bờ bao quanh, thì đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải là ngấn
nước triều thấp nhất ở bờ phía ngoài cũng của các mỏm đá, như đã được thể hiện
trên các hải đồ được quốc gia ven biển chính thức công nhận.
ĐIỀU 7. Đường cơ sở thẳng
1. Ở nơi nào bờ biển bị khoét sâu và lồi lõm hoặc nếu có một chuỗi đảo nằm
sát ngay và chạy dọc theo bờ biển, phương pháp đường cơ sở thẳng nối liền các
điểm thích hợp có thể được sử dụng để kẻ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng
lãnh hải.
2. Ở nơi nào bờ biển cực kỳ không ổn định do có một châu thổ và những đặc
điểm tự nhiên khác, các điểm thích hợp có thể được lựa chọn dọc theo ngấn nước
triều thấp nhất có chuyển dịch vào phía trong bờ, các đường cơ sở đã được vạch
ra vẫn có hiệu lực cho tới khi các quốc gia ven biển sửa đổi đúng theo Công
ước.
3. Tuyến các đường cơ sở không được đi chệch quá xa hướng chung của bờ
biển, và các vùng biển ở bên trong các đường cơ sở này phải gắn với đắt liền đủ
đến mức đạt được chế độ nội thủy.
4. Các đường cơ sở thẳng không được kéo đến hoặc xuất phát từ các bãi cạn
lúc nổi lúc chìm, trừ trường hợp ở đó có những đèn biển hoặc các thiết bị tương
tự thường xuyên nhô trên mặt nước hoặc việc vạch các đường cơ sở thẳng đó đã
được sự thừa nhận chung của quốc tế.
5. Trong những trường hợp mà phương pháp kẻ đường cơ sở thẳng được áp dụng
theo khoản 1, khi ấn định một số đoạn đường cơ sở có thể tính đến những lợi ích
kinh tế riêng biệt của khu vực đó mà thực tế và tầm quan trọng của nó đã được
một quá trình sử dụng lâu dài chứng minh rõ ràng.
6. Phương pháp đường cơ sở thẳng do một quốc gia áp dụng không được làm cho
lãnh hải của một quốc gia khác bị tách khỏi biển cả hoặc một vùng đặc quyền
kinh tế.
ĐIỀU 8. Nội thủy
1. Trừ trường hợp đã được quy định ở Phần IV, các vùng nước ở phía bên trong
đường cơ sở của lãnh hải thuộc nội thủy của quốc gia.
2. Khi một đường cơ sở thẳng được vạch ra theo đúng phương pháp được nói ở
Điều 7 gộp vào nội thủy các vùng nước trước đó chưa được coi là nội thủy, thì
quyền đi qua không gây hại nói trong Công ước vẫn được áp dụng ở các vùng nước
đó.
ĐIỀU 9. Cửa sông
Nếu một con sông đổ ra biển mà không tạo thành vụng thì đường cơ sở là một
đường thẳng được kẻ ngay qua cửa sông nối liền các điểm ngoài cùng của ngấn
nước triều thấp nhất ở hai bên bờ sông.
ĐIỀU 10. Vịnh
1. Điều này chỉ liên quan đến những vịnh mà bờ vịnh thuộc một quốc gia duy
nhất.
2. Trong Công ước, “Vịnh” (baie) cần được hiểu là một vùng lõm sâu rõ rệt
vào đất liền mà chiều sâu của vùng lõm đó so sánh với chiều rộng ở ngoài cửa
của nó đến mức là nước của vùng lõm đó được bờ biển bao quanh và vùng đó lõm
sâu hơn là một sự uốn cong của bờ biển. Tuy nhiên, một vũng lõm chỉ được coi là
một vịnh nếu như diện tích của nó ít nhất cũng bằng diện tích một nửa hình tròn
có đường kính là đường thẳng kẻ ngang qua cửa vào của vùng lõm.
3. Diện tích của một vùng lõm được tính giữa ngấn nước triều thấp nhất dọc
theo bờ biển của vùng lõm và đường thẳng nối liền các ngấn nước triều thấp nhất
ở các điểm của cửa vào tự nhiên. Nếu do có các đảo mà một vùng lõm có nhiều cửa
vào, thì nửa hình tròn nói trên có đường kính bằng tổng số chiều dài các đoạn
thẳng cắt ngang các cửa vào đó. Diện tích của các đảo nằm trong một vùng lõm
được tính vào diện tích chung của vùng lõm.
4. Nếu khoảng cách giữa các ngấn nước triều thấp nhất ở các điểm của cửa
vào tự nhiên một vịnh không vượt quá 24 hải lý, thì đường phân giới có thể được
vạch giữa hai ngấn nước triều thấp nhất này và vùng nước ở phía bên trong đường
đó được coi là nội thủy.
5. Khi khoảng cách giữa các ngấn nước triều thấp nhất ở các điểm của cửa
vào tự nhiên của một vịnh vượt quá 24 hải lý, thì được kẻ một đoạn đường cơ sở
thẳng dài 24 hải lý ở phía trong vịnh, sao cho phía trong của nó có một diện
tích nước tối đa.
6. Các quy định trên đây không áp dụng đối với các vịnh gọi là “vịnh lịch
sử” và cũng không áp dụng đối với các trường hợp làm theo phương pháp đường cơ
sở thẳng được trù định trong Điều 7.
ĐIỀU 11. Cảng
Để ấn định ranh giới lãnh hải, các công trình thiết bị thường xuyên là bộ
phận hữu cơ của một hệ thống cảng, nhô ra ngoài khơi xa nhất, được coi là thành
phần của bờ biển. Các công trình thiết bị ở ngoài khơi xa bờ biển và các đảo
nhân tạo không được coi là những công trình thiết bị cảng thường xuyên.
ĐIỀU 12. Vũng tàu
Các vũng tàu được dùng thường xuyên vào việc xếp dỡ hàng hóa và làm khu neo
tàu, bình thường nằm hoàn toàn hoặc một phần ở ngoài đường ranh giới bên ngoài
của lãnh hải cũng được coi như là bộ phận của lãnh hải.
ĐIỀU 13. Bãi cạn lúc chìm lúc nổi
1. “Bãi cạn lúc chìm lúc nổi” (haut-fonds découvrants) là những vùng đất
nhô cao tự nhiên có biển bao quanh, khi thủy triều xuống thấp thì lộ ra, khi
thủy triều lên cao thì bị ngập nước. Khi toàn bộ hay một phần bãi cạn đó ở cách
lục địa hoặc một đảo một khoảng cách không vượt quá chiều rộng của lãnh hải,
thì ngấn nước triều thấp nhất ở trên các bãi cạn này có thể được dùng làm đường
cơ sở để tính chiều rộng của lãnh hải.
2. Khi các bãi cạn lúc chìm lúc nổi hoàn toàn ở cách lục địa hoặc một đảo
một khoảng cách vượt quá chiều rộng của lãnh hải, thì chung không có lãnh hải
riêng.
ĐIỀU 14. Sự kết hợp các phương pháp để vạch các đường cơ
sở
Quốc gia ven biển, tùy theo hoàn cảnh khác nhau, có thể vạch ra các đường
cơ sở theo một hay nhiều phương pháp được trù định ở các điều nói trên.
ĐIỀU 15. Việc hoạch định ranh giới lãnh hải giữa các quốc
gia có bờ biển kề nhau hoặc đối diện nhau
Khi hai quốc gia có bờ biển kề nhau hoặc đối diện nhau, không quốc gia nào
được quyền mở rộng lãnh hải ra quá đường trung tuyến mà mọi điểm nằm trên đó
cách đều các điểm gần nhất của các đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải
của mỗi quốc gia, trừ khi có sự thỏa thuận ngược lại. Tuy nhiên, quy định này
không áp dụng trong trường hợp do có những danh nghĩa lịch sử hoặc có các hoàn
cảnh đặc biệt khác cần phải hoạch định ranh giới lãnh hải của hai quốc gia một
cách khác.
ĐIỀU 16. Hải đồ và bản kê các tọa độ địa lý
1. Các đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải được vạch ra theo đúng
các Điều 7, 9 và 10 hoặc các ranh giới hình thành từ các điều đó và các đường
hoạch định ranh giới được vạch ra đúng theo các Điều 12 và 15, được thể hiện
trên các hải đồ có tỷ lệ thích hợp để xác định được vị trí của nó. Nếu không,
thì có thể thay thế bằng một bản kê các tọa độ địa lý các điểm, có ghi rõ hệ
thống trắc địa đã được sử dụng.
2. Quốc gia ven biển công bố theo đúng thủ tục các hải đồ hay các bản kê
các tọa độ địa lý và gửi đến Tổng thư ký Liên hợp quốc một bản để lưu chiếu.
Mục 3
ĐI QUA KHÔNG GÂY HẠI TRONG LÃNH HẢI
TIỀU MỤC A
CÁC QUY TẮC ÁP DỤNG CHO TẤT CẢ CÁC LOẠI TÀU THUYỀN
ĐIỀU
17. Quyền đi qua không gây hại
Với điều kiện phải chấp hành Công ước, tàu thuyền của tất cả các quốc gia,
có biển hay không có biển, đều được hưởng quyền đi qua không gây hại trong lãnh
hải.
ĐIỀU 18. Nghĩa của thuật ngư “Đi qua” (Passage)
1. “Đi qua” là đi ở trong lãnh hải, nhằm mục đích
a) Đi ngang qua nhưng không đi vào nội thủy, không đậu lại trong một vũng
tàu hoặc một công trình cảng ở bên ngoài nội thủy; hoặc
b) Đi vào hoặc rời khỏi nội thủy, hoặc đậu lại hay rời khỏi một vũng tàu
hay một công trình cảng trong nội thủy.
2. Việc đi qua phải liên tục và nhanh chóng. Tuy nhiên, việc đi qua bao gồm
cả việc dừng lại và thả neo, nhưng chỉ trong trường hợp gặp phải những sự cố
thông thường về hàng hải hoặc vì một trường hợp bất khả kháng hay mắc nạn hoặc
vì mục đích cứu giúp người, tàu thuyền hay phương tiện bay đang lâm nguy hoặc
mắc nạn.
ĐIỀU 19. Nghĩa của thuật ngữ “đi qua không gây hại”
(Passage inoffensif)
1. Việc đi qua là không gây hại, chừng nào nó không làm phương hại đến hòa
bình, trật tự hay an ninh của quốc gia ven biển. Việc đi qua không gây hại cần
phải được thực hiện theo đúng với các quy định của Công ước và các quy tắc khác
của pháp luật quốc tế.
2. Việc đi qua của một tàu thuyền nước ngoài bị coi như phương hại đến hòa
bình, trật tự hay an ninh của quốc gia ven biển, nếu như ở trong lãnh hải, tàu
thuyền này tiến hành một trong bất kỳ hoạt động nào sau đây:
a) Đe dọa hoặc dùng vũ lục chống lại chính quyền, toàn vẹn lãnh thổ hoặc
độc lập chính trị của quốc gia ven biển hay dùng mọi cách khác trái với các
nguyên tắc của pháp luật quốc tế đã được nêu trong Hiến chương Liên hợp quốc;
b) Luyện tập hoặc diễn tập với bất kỳ kiểu loại vũ khí nào;
c) Thu nhập tình báo gây thiệt hại cho quốc phòng hay an ninh của quốc gia
ven biển;
d) Phóng đi, tiếp nhận hay xếp lên tàu các phương tiện bay;
e) Phóng đi, tiếp nhận hay xếp lên tàu các phương tiện quân sự;
f) Tuyên truyền nhằm làm hại đến quốc phòng hay an ninh của quốc gia ven
biển;
g) Xếp hoặc dỡ hàng hóa, tiền bạc hay đưa người lên xuống tàu trái với các
luật và quy định về hải quan, thuế khóa, y tế hoặc nhập cư của quốc gia ven
biển;
h) Gây ô nhiễm cố ý và nghiêm trọng, vi phạm Công ước;
i) Đánh bắt hải
sản;
j) Nghiên cứu hay
đo đạc;
k) Làm rối loạn
hoạt động của mọi hệ thống giao thông liên lạc hoặc mọi trang thiết bị hay công
trình khác của quốc gia ven biển;
l) Mọi hoạt động
khác không trực tiếp quan hệ đến việc đi qua.
ĐIỀU 20. Tàu
ngầm và các phương tiện đi ngầm khác
Ở trong lãnh hải,
tàu ngầm và các phương tiện đi ngầm khác buộc phải đi nổi và phải treo cờ quốc
tịch.
ĐIỀU 21. Các
luật và quy định của quốc gia ven biển liên quan đến việc đi qua không gây hại
1. Quốc gia ven
biển có thể định ra, phù hợp với các quy định của Công ước và các quy tắc khác
của pháp luật quốc tế, các luật và quy định liên quan đến việc đi qua không gây
hại ở trong lãnh hải của mình về các vấn đề sau đây:
a) An toàn hàng
hải và điều phối giao thông đường biển;
b) Bảo vệ các
thiết bị và các hệ thống bảo đảm hàng hải và các thiết bị hay công trình khác;
c) Bảo vệ các
đường giây cáp và ống dẫn;
d) Bảo tồn tài
nguyên sinh vật biển;
e) Ngăn ngừa những
sự vi phạm các luật và quy định của quốc gia ven biển liên quan đến việc đánh
bắt;
f) Gìn giữ môi
trường của quốc gia ven biển và ngăn ngừa, hạn chế, chế ngự ô nhiễm môi trường;
g) Nghiên cứu khoa
học biển và đo đạc thủy văn;
h) Ngăn ngừa những
sự vi phạm các luật và quy định về hải quan, thuế khóa, y tế hay nhập cư của
quốc gia ven biển;
2. Các luật và quy
định này không áp dụng đối với cách thiết kế, việc đóng hoặc đối với trang bị
của tàu thuyền nước ngoài, nếu chúng không có ảnh hưởng gì đến các quy tắc hay
quy phạm quốc tế được chấp nhận chung.
3. Quốc gia ven
biển công bố theo đúng thủ tục các luật và quy định này.
4. Khi thực hiện
quyền đi qua không gây hại ở trong lãnh hải tàu thuyền nước ngoài phải tuân thủ
các luật và quy định này, cũng như tất cả các quy định quốc tế được chấp nhận
chung có liên quan đến việc phòng ngừa đâm va trên biển.
ĐIỀU 22. Các
tuyến đường và cách bố trí phân chia luồng giao thông ở trong lãnh hải
1. Quốc gia ven
biển khi cần bảo đảm an toàn hàng hải có thể đòi hỏi tàu thuyền nước ngoài đi
qua không gây hại trong lãnh hải của mình phải đi theo các tuyến đường do mình
ấn định và phải tôn trọng các cách bố trí phân chia các luồng giao thông do
mình quy định nhằm điều phối việc qua lại các tàu thuyền.
2. Đặc biệt, đối
với các tàu xi-teec (navires-citernes), các tàu có động cơ chạy bằng năng lượng
hại nhân và các tàu chở các chất hay các nguyên liệu phóng xạ hoặc các chất
khác vốn nguy hiểm hay độc hại, có thể bị bắt buộc chỉ được đi theo các tuyến
đường này.
3. Khi ấn định các
tuyến đường và quy định cách bố trí phân chia luồng giao thông theo điều này,
quốc gia ven biển lưu ý đến:
a) Các kiến nghị
của tổ chức quốc tế có thẩm quyền;
b) Tất cả các
luồng lạch thường được sử dụng cho hàng hải quốc tế;
c) Các đặc điểm
riêng của một số loại tàu thuyền và luồng lạch;
d) Mật độ giao
thông.
4. Quốc gia ven
biển ghi rõ các tuyến đường và các cách phân chia luồng giao thông nói trên lên
hải đồ và công bố theo đúng thủ tục.
ĐIỀU 23. Tàu
thuyền nước ngoài có động cơ chạy bằng năng lượng hạt nhân và tàu thuyền chuyên
chở các chất phóng xạ hay các chất vốn nguy hiểm hoặc độc hại.
Các tàu thuyền
nước ngoài có động cơ chạy bằng năng lượng hạt nhân cũng như các tàu thuyền
chuyên chở các chất phóng xạ hay các chất khác vốn nguy hiểm hay độc hại, khi
thực hiện quyền đi qua không gây hại trong lãnh hải, buộc phải mang đầy đủ các
tài liệu và áp dụng những biện pháp phòng ngừa đặc biệt theo quy định của các
điều ước quốc tế đối với loại tàu thuyền đó.
ĐIỀU 24. Các
nghĩa vụ của quốc gia ven biển
1. Quốc gia ven
biển không được cản trở quyền đi qua không gây hại của các tàu thuyền nước
ngoài trong lãnh hải, ngoài những trường hợp mà Công ước đã trù định. Đặc biệt
khi áp dụng Công ước, quốc gia ben biển không được:
a) Áp đặt cho các
tàu thuyền nước ngoài những nghĩa vụ dẫn đến việc cản trở hay hạn chế việc thực
hiện quyền đi qua không gây hại của các tàu thuyền này;
b) Phân biệt đối
xử về mặt pháp lý hay về mặt thực tế đối với các tàu thuyền chở hàng từ một
quốc gia nhất định hay đến quốc gia đó hoặc nhân danh một quốc gia nhất định.
2. Quốc gia ven
biển thông báo thích đáng mọi nguy hiểm về hàng hải của mình biết trong lãnh
hải của mình.
ĐIỀU 25. Quyền
bảo vệ các quốc gia ven biển
1. Quốc gia ven
biển có thể thi hành các biện pháp cần thiết trong lãnh hải của mình để ngăn
cản mọi việc đi qua có gây hại.
2. Đối với tàu
thuyền đi vào vùng nội thủy hay vào một công trình cảng ở bên ngoài vùng nội
thủy đó, quốc gia ven biển cũng có quyền thi hành những biện pháp cần thiết để
ngăn ngừa mọi sự vi phạm đối với các điều kiện mà tàu thuyền này buộc phải tuân
theo để được phép vào vùng nội thủy hay công trình cảng nói trên.
3. Quốc gia ven biển
có thể tạm thời đình chỉ việc thực hiện quyền đi qua không gây hại của tàu
thuyền nước ngoài tại các khu vực nhất định trong lãnh hải của mình, nếu biện
pháp này là cần thiết để bảo đảm an ninh của mình, kể cả để thử vũ khí, nhưng
không được phân biệt đối xử về mặt pháp lý hay về mặt thực tế giữa các tàu
thuyền nước ngoài. Việc đình chỉ này chỉ có hiệu lực sau khi đã được công bố
theo đúng thủ tục.
ĐIỀU 26. Lệ phí
đối với tàu thuyền nước ngoài
1. Không được thu
lệ phí đối với tàu thuyền nước ngoài đi qua lãnh hải, nếu không phải vì lý do
trả công cho những dịch vụ riêng đối với những tàu thuyền này. Khi thu lệ phí
đó không được phân biệt đối xử.
TIỂU
MỤC B
QUY
TẮC ÁP DỤNG CHO TÀU BUÔN VÀ TÀU NHÀ NƯỚC DÙNG VÀO MỤC ĐÍCH THƯƠNG MẠI
ĐIỀU 27. Quyền
tài phán hình sự ở trên một tàu nước ngoài
1. Quốc gia ven
biển không được thực hiện quyền tài phán hình sự của mình ở trên một tàu nước
ngoài đi qua lãnh hải để tiến hành việc bắt giữ hay tiến hành việc dự thẩm sau
một vụ vi phạm hình sự xảy ra trên con tàu trong khi nó đi qua lãnh hải, trừ
các trường hợp sau đây:
a) Nếu hậu quả của
vụ vi phạm đó mở rộng đến quốc gia ven biển;
b) Nếu vị vi phạm
có tính chất phá hoại hòa bình của đất nước hay trật tự trong lãnh hải;
c) Nếu thuyền
trưởng hay một viên chức ngoại giao hoặc một viên chức lãnh sự của quốc gia mà
tàu mang cờ yêu cầu sự giúp đỡ của các nhà đương cục địa phương hoặc
d) Nếu các biện
pháp này là cần thiết để trấn áp việc buôn lậu chất ma túy hay các chất kích
thích.
2. Khoản 1 không
đụng chạm gì đến quyền của quốc gia ven biển áp dụng mọi luật pháp mà luật
trong nước mình qui định nhằm tiến hành các việc bắt giữ hay tiến hành việc dự
thẩm ở trên con tàu nước ngoài đi qua lãnh hải, sau khi rời khỏi nội thủy.
3. Trong những
trường hợp nêu ở các khoản 1 và 2, nếu thuyền trưởng yêu cầu, quốc gia ven biển
phải thông báo trước về mọi biện pháp cho một viên chức ngoại giao hay cho một
viên chức lãnh sự của quốc gia mà tàu mang cờ và phải tạo điều kiện dễ dàng cho
viên chức ngoại giao hay viên chức lãnh sự đó tiếp xúc với đoàn thủy thủ của
con tàu. Tuy nhiên trong trường hợp khẩn cấp, việc thông báo này có thể tiến
hành trong khi các biện pháp đang được thi hành.
4. Khi xem xét có
nên bắt giữ và các thể thức của việc bắt giữ, nhà đương cục địa phương cần phải
chú ý thích đáng đến các lợi ích về hàng hải.
5. Trừ trường hợp
áp dụng phần XII hay trong trường hợp có sự vi phạm các luật và quy định được
định ra theo đúng phần V, quốc gia ven biển không được thực hiện một biện pháp
nào ở trên một con tàu nước ngoài khi nó đi qua lãnh hải nhằm tiến hành bắt giữ
hay tiến hành việc dự thẩm sau một vụ vị phạm hình sự xảy ra trước khi con tàu
đi vào lãnh hải mà không đi vào nội thủy.
ĐIỀU 28. Quyền
tài phán dân sự đối với các tàu thuyền nước ngoài
1. Quốc gia ven
biển không được bắt một tàu nước ngoài đang đi qua lãnh hải phải dừng lại hay
thay đổi hành trình của nó để thực hiện quyền tài phán dân sự của mình đối với
một người ở trên con tàu đó.
2. Quốc gia ven
biển không thể áp dụng các biện pháp trừng phạt hay biện pháp bảo đảm (mesures
conservatoires) về mặt dân sự đối với con tàu này, nếu không phải vì những
nghĩa vụ đã cam kết hay các trách nhiệm mà con tàu phải đảm nhận trong khi đi
qua hoặc để được đi qua vùng biển của quốc gia ven biển.
3. Khoản 2 không
đụng chạm đến quyền của quốc gia ven biển áp dụng các biện pháp trừng phạt hay
bảo đảm về mặt dân sự do luật trong nước của quốc gia này quy định đối với tàu
thuyền nước ngoài đang đậu trong lãnh hải hay đang đi qua lãnh hải, sau khi đã
rời nội thủy.
TIỂU
MỤC C
QUY
TẮC ÁP DỤNG CHO CÁC TÀU CHIẾN VÀ CÁC TÀU THUYỀN KHÁC CỦA NHÀ NƯỚC ĐƯỢC DÙNG VÀO
NHỮNG MỤC ĐÍCH KHÔNG THƯƠNG MẠI
ĐIỀU 29. Định nghĩa “tàu chiến” (navire de guerre)
Trong Công ước, « tàu chiến » là mọi tàu thuyền thuộc lực lượng vũ trang
của một quốc gia và mang dấu hiệu bên ngoài đặc trưng của các tàu thuyền quân
sự thuộc quốc tịch nước đó; do một sĩ quan hải quân phục vụ quốc gia đó chỉ
huy, người chỉ huy này có tên trong danh sách các sĩ quan hay trong một tài
liệu tương đương; và đoàn thủy thủ phải tuân theo các điều lệnh kỷ luật quân
sự.
ĐIỀU 30. Tàu chiến không tuân thủ các luật và quy định
của quốc gia ven biển
Nếu một tàu chiến không tôn trọng các luật và quy định của quốc gia ven
biển có liên quan đến việc đi qua trong lãnh hải và bất chấp yêu cầu phải tuân
thủ các luật và quy định đó đã được thông báo cho họ, thì quốc gia ven biển có
thể đòi chiếc tàu đó rời khỏi lãnh hải ngay lập tức.
ĐIỀU 31. Trách nhiệm của quốc gia mà tàu mang cờ đối với
hành động của một tàu chiến hay một tàu khác của Nhà nước
Quốc gia mà tàu mang cờ chịu trách nhiệm quốc tế về mọi tổn thất hoặc về
mọi thiệt hại gây ra cho quốc gia ven biển do một tàu chiến hay bất kỳ tàu
thuyền nào khác của Nhà nước dùng vào những mục đích không thương mại vi phạm
các luật và quy định của quốc gia ven biển có liên quan đến việc đi qua lãnh
hải hay vi phạm các quy định của Công ước hoặc các quy tắc khác của pháp luật
quốc tế.
ĐIỀU 32. Các quyền miễn trừ của các tàu chiến và các tàu
khác của Nhà nước dùng vào những mục đích không thương mại
Ngoài những ngoại lệ đã nêu ở Tiểu mục A và ở các Điều 30 và 31, không một
quy định nào của Công ước đụng chạm đến các quyền miễn trừ mà các tàu chiến và
các tàu khác của Nhà nước dùng vào những mục đích không thương mại được hưởng.
Mục 4
VÙNG TIẾP GIÁP
ĐIỀU 33. Vùng tiếp giáp
1. Trong một vùng tiếp giáp với lãnh hải của mình, gọi là vùng tiếp giáp,
quốc gia ven biển có thể thi hành sự kiểm soát cần thiết, nhằm:
a) Ngăn ngừa những phạm vi đối với các luật và quy định hải quan, thuế
khóa, y tế hay nhập cư trên lãnh thổ hay trong lãnh hải của mình;
b) Trừng trị những vi phạm đối với các luật và quy định nói trên xảy ra
trên lãnh thổ hay trong lãnh hải của mình.
2. Vùng tiếp giáp không thể mở rộng quá 24 hải lý kể từ đường cơ sở dùng để
tính chiều rộng của lãnh hải.
PHẦN III. EO BIỂN DÙNG CHO HÀNG
HẢI QUỐC TẾ
Mục 1
CÁC QUY ĐỊNH CHUNG
ĐIỀU 34. Chế độ pháp lý của vùng
nước các eo biển dùng cho hàng hải quốc tế
1. Chế độ đi qua các eo biển dùng cho hàng hải quốc tế mà phần này quy định
không ảnh hưởng gì về bất cứ phương diện nào khác đến chế độ pháp lý của vùng
nước các eo biển này, cũng như đến việc quốc gia ven eo biển thực hiện chủ
quyền hay quyền tài phán của mình ở các vùng nước ấy, ở đáy biển tương ứng và
lòng đất dưới đáy biển, cũng như vùng trời ở trên các vùng nước đó.
2. Các quốc gia ven eo biển thực hiện chủ quyền hay quyền tài phán của mình
trong những điều kiện do các quy định của phần này và các quy tắc khác của pháp
luật quốc tế trù định.
ĐIỀU 35. Phạm vi áp dụng của phần này
Không một quy định nào của phần này được đụng chạm đến:
a) Nội thủy thuộc một eo biển, trừ khi việc vạch ra một tuyến đường cơ sở
thẳng theo đúng với phương pháp nói ở Điều 7 đã gộp vào trong nội thủy những
vùng nước trước đây không được coi là nội thủy;
b) Chế độ pháp lý của các vùng nước nằm ngoài lãnh hải của các quốc gia ven
eo biển, dù chúng thuộc vùng quốc tế hay thuộc biển cả;
c) Chế độ pháp lý của các eo biển mà việc đi qua đã được quy định toàn bộ
hay từng phần trong các công ước quốc tế đặc biệt nhằm vào các eo biển này đã
có từ lâu đời và vẫn đang có hiệu lực.
ĐIỀU 36. Các đường ở biển cả hay đường qua một vùng đặc
quyền kinh tế nằm trong các eo biển dùng cho hàng hải quốc tế.
Phần này không áp dụng đối với các eo biển dùng cho hàng hải quốc tế, nếu
như có thể vượt qua eo biển đó bằng một con đường ở biển cả hay một con đường
qua một vùng đặc quyền kinh tế cũng thuận tiện như thế về phương diện hàng hải
và về các đặc điểm thủy văn; về các con đường này, những phần khác tương ứng
của công ước có thể được áp dụng, kể cả các quy định liên quan đến tự do hàng
hải và tự do hàng không.
Mục 2
QUÁ CẢNH
ĐIỀU 37. Phạm vi áp dụng của mục này
Mục này được áp dụng đối với các eo biển dùng cho hàng hải quốc tế giữa một
bộ phận của biển cả hoặc một vùng đặc quyền về kinh tế và giữa một bộ phận khác
của biển cả hoặc một vùng đặc quyền về kinh tế.
ĐIỀU 38. Quyền quá cảnh
1. Trong các eo biển nói ở Điều 37, tất cả các tàu thuyền và phương tiện
bay đều được hưởng quyền quá cảnh mà không bị cản trở, trừ trường hợp hạn chế
là quyền đó không được áp dụng cho các eo biển do lãnh thổ đất liền của một
quốc gia và một hòn đảo thuộc quốc gia này tạo thành, khi ở ngoài khơi hòn đảo
đó có một con đường đi trên biển cả, hay có một con đường đi qua một vùng đặc
quyền về kinh tế cũng thuận tiện như thế về phương diện hàng hải và về các đặc
điểm thủy văn.
2. Thuật ngữ “quá cảnh” có nghĩa là việc thực hiện, theo đúng phần này,
quyền tự do hàng hải và hàng không với mục đích duy nhất là đi qua liên tục và
nhanh chóng qua eo biển giữa một bộ phận của biển cả hoặc một vùng đặc quyền về
kinh tế và một bộ phận khác của biển cả hoặc một vùng đặc quyền về kinh tế. Tuy
nhiên, đòi hỏi quá cảnh liên tục và nhanh chóng không ngăn cấm việc đi qua eo
biển để đến lãnh thổ của một quốc gia ven eo biển, đề rời khỏi hoặc lại đến
lãnh thổ đó, theo các điều kiện cho phép đến lãnh thổ của quốc gia đó.
3. Bất kỳ hoạt động nào không thuộc phạm vi thực hiện quyền quá cảnh qua
các eo biển đều tùy thuộc vào các quy định khác có thể áp dụng của Công ước.
ĐIỀU 39. Các nghĩa vụ của tàu thuyền
và phương tiện bay trong khi quá cảnh
1. Trong khi thực hiện quyền quá cảnh, các tàu thuyền và phương tiện bay:
a) Đi qua hay bay qua eo biển không chậm trễ;
b) Không được đe dọa hay dùng vũ lực để chống lại chủ quyền, toàn vẹn lãnh
thổ hay độc lập chính trị của các quốc gia ven eo biển hay dùng mọi cách khác
trái với các nguyên tắc pháp luật quốc tế được nêu trong Hiến chương Liên hợp
quốc;
c) Không được có hoạt động nào khác ngoài những hoạt động cần cho sự quá
cảnh liên tục và nhanh chóng, theo phương thức đi bình thường, trừ trường hợp
bất khả kháng hoặc trừ trường hợp nguy cấp;
d) Tuân thủ các quy định thích hợp khác của phần này.
2. Trong khi quá cảnh các tàu thuyền tuân thủ:
a) Các quy định, thủ tục và tập quán quốc tế đã được chấp nhận chung về mặt
an toàn hàng hải, nhất là các quy tắc quốc tế để phòng ngừa đâm va trên biển;
b) Các quy định, thủ tục và tập quán quốc tế đã được chấp nhận chung nhằm
ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm do các tàu thuyền gây ra.
3. Trong khi quá cảnh, các phương tiện bay:
a) Tôn trọng các quy định về hàng không do Tổ chức hàng không dân dụng quốc
tế đề ra để áp dụng cho các phương tiện bay dân dụng; bình thường các phương
tiện bay của Nhà nước phải tuân thủ các biện pháp an toàn do các quy định này
đề ra và khi hoạt động vào bất kỳ lúc nào, các phương tiện bay cũng phải chú ý
đến an toàn hàng không.
b) Thường xuyên theo dõi tần số điện đài mà cơ quan có thẩm quyền được quốc
tế chỉ định làm nhiệm vụ kiểm soát giao thông hàng không đã phân bổ cho, hoặc
tần số quốc tế về nguy cấp.
ĐIỀU 40. Nghiên cứu và đo đạc thủy văn
Trong khi quá cảnh, các tàu thuyền nước ngoài, kể cả các tàu thuyền chuyên
dùng cho nghiên cứu khoa học biển hay cho đo đạc thủy văn, không được dùng để
nghiên cứu hoặc đo đạc nếu không được phép trước của các quốc gia ven eo biển.
ĐIỀU 41. Các tuyến đường và các cách bố trí phân chia
luồng giao thông trong các eo biển dùng cho hàng hải quốc tế
1. Theo đúng phần này, các quốc gia ven eo biển khi có nhu cầu bảo đảm an
toàn cho tàu thuyền đi qua các eo biển, có thể ấn định các tuyến đường và quy
định các cách phân chia luồng giao thông.
2. Các quốc gia nói trên, khi hoàn cảnh đòi hỏi và sau khi đã công bố theo
đúng thủ tục biện pháp này, có thể ấn định các tuyến đường mới hay quy định các
cách mới phân chia luồng giao thông thay thế mọi tuyến đường hay mọi cách phân
chia luồng giao thông đã được ấn định hay quy định trước đó.
3. Các tuyến đường và cách bố trí phân chia luồng giao thông cần phải phù
hợp với quy định quốc tế đã được chấp nhận chung.
4. Trước khi ấn định hay thay thế các tuyến đường hoặc trước khi quy định
hay thay thế các cách phân chia luồng giao thông, các quốc gia ven eo biển gửi
các đề nghị của mình cho tổ chức quốc tế có thẩm quyền thông qua. Tổ chức này
chỉ có thể chấp nhận các tuyến đường và cách phân chia luồng giao thông nào đã
có thể thỏa thuận với các quốc gia ven eo biển; khi đó, các quốc gia này có thể
ấn định, quy định hoặc thay thế các tuyến đường và các cách phân chia luồng
giao thông này.
5. Khi đề nghị thiết lập trong một eo biển các tuyến đường hay cách phân
chia luồng giao thông có liên quan đến vùng nước của nhiều quốc gia ven eo
biển, các quốc gia hữu quan hợp tác với nhau để soạn thảo các đề nghị, có sự
tham khảo ý kiến của tổ chức quốc tế có thẩm quyền.
6. Các quốc gia ven eo biển ghi rõ ràng lên các hải đồ tất cả các tuyến
đường hay tất cả các cách phân chia luồng giao thông mà mình đã thiết lập và
công bố các hải đồ này theo đúng thủ tục.
7. Trong khi quá cảnh, tàu thuyền tôn trọng các tuyến đường và các cách
phân chia luồng giao thông đã được thiết lập theo đúng điều này.
ĐIỀU 42. Các luật và quy định của quốc gia ven eo biển
liên quan đến việc quá cảnh
1. Với điều kiện chấp hành mục này, các quốc gia ven eo biển có thể ra các
luật và quy định liên quan đến việc đi qua eo biển về các vấn đề sau:
a) An toàn hàng hải và điều phối giao thông trên biển như đã được nêu ở
Điều 41;
b) Ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm môi trường, bằng cách thi hành quy
định quốc tế có thể áp dụng được về việc trút bỏ dầu, cặn dầu và các chất độc
hại trong eo biển;
c) Việc cấm đánh bắt hải sản đối với các tàu đánh bắt hải sản; kể cả quy
định việc xếp đặt các phương tiện đánh bắt;
d) Xếp, dỡ hàng hóa, tiền bạc hay đưa người lên xuống tàu trái với các luật
và quy định hải quan, thuế khóa, y tế hay nhập cư của quốc gia ven eo biển.
2. Các luật và quy định này không được dẫn đến bất kỳ một sự phân biệt đối
xử nào về mặt pháp lý hay về mặt thực tế giữa các tàu thuyền nước ngoài, việc
áp dụng các luật và quy định này không được có tác dụng ngăn cản, hạn chế hay
gây trở ngại cho việc thực hiện quyền quá cảnh như đã được xác định trong mục
này.
3. Các quốc gia ven eo biển công bổ những luật và quy định này theo đúng
thủ tục.
4. Các tàu thuyền nước ngoài khi thực hiện quyền quá cảnh qua eo biển phải
tuân thủ các luật và quy định này.
5. Trong trường hợp một tàu hay một phương tiện bay được hưởng quyền miễn
trừ về chủ quyền vi phạm các luật và quy định này, quốc gia mà con tàu mang cờ
hay quốc gia đăng ký phương tiện bay phải chịu trách nhiệm quốc tế về mọi tổn
thất hay thiệt hại có thể gây ra cho eo biển.
ĐIỀU 43. Các thiết bị an toàn, bảo đảm hàng hải và các
thiết bị khác, và việc ngăn ngừa hạn chế, chế ngự ô nhiễm môi trường
Các quốc gia sử dụng một eo biển và các quốc gia ven eo biển cần thỏa thuận
hợp tác với nhau để:
a) Thiết lập và bảo dường các thiết bị an toàn và bảo đảm hàng hải cần
thiết cũng như các thiết bị khác đặt trong eo biển dùng để làm dễ dàng cho hàng
hải quốc tế, và
b) Ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự nạn ô nhiễm do tàu thuyền gây ra.
ĐIỀU 44. Các nghĩa vụ của các quốc gia ven eo biển
Các quốc gia ven eo biển không được gây trở ngại cho việc quá cảnh và phải
thông báo đầy đủ và mọi nguy hiểm đối với hàng hải trong eo biển hoặc đối với
việc bay trên eo biển mà các quốc gia này nắm được. Việc thực hiện quyền quá
cảnh không thể bị đình chỉ.
Mục 3
ĐI QUA KHÔNG GÂY HẠI
ĐIỀU 45. Đi qua không gây hại
1. Chế độ đi qua không gây hại được nêu ở Mục 3 của phần II được áp dụng
trong các eo biển dùng cho hàng hải quốc tế:
a) Nằm ngoài phạm vi áp dụng của chế độ quá cảnh theo Điều 38, khoản 1;
hoặc
b) Nối liền lãnh hải của một quốc gia với một bộ phận của biển cả hay với
một vùng đặc quyền kinh tế của một quốc gia khác.
2. Việc thực hiện quyền đi qua không gây hại trong các eo biển không thể bị
đình chỉ.
PHẦN IV. CÁC QUỐC GIA QUẦN ĐẢO
ĐIỀU 46. Sử dụng các thuật ngữ
Trong công ước:
a) “Quốc gia quần đảo” (Etat Archipel) là một quốc gia hoàn toàn được cấu
thành bởi một hay nhiều quần đảo và có khi bởi một số hòn đảo khác nữa.
b) “Quần đảo” (Archipel) là một tổng thể các đảo, kể cả các bộ phận của các
đảo, các vùng nước tiếp liền và các thành phần tự nhiên khác có liên quan với
nhau đến mức tạo thành về thực chất một thể thống nhất về địa lý, kinh tế và
chính trị, hay được coi như thế về mặt lịch sử.
ĐIỀU 47. Đường cơ sở quần đảo
1. Một quốc gia quần đảo có thể vạch các đường cơ sở thẳng của quần đảo nối
liền các điểm ngoài cùng của các đảo xa nhất và các bãi đá lúc chìm lúc nổi của
quần đảo, với điều kiện là tuyến các đường cơ sở này bao lấy các đảo chủ yếu và
xác lập một khu vực mà tỷ lệ diện tích nước đó với đất, kể cả vành đai san hô,
phải ở giữa tỷ lệ số 1/1 và 9/1.
2. Chiều dài của các đường cơ sở này không vượt quá 100 hải lý; tuy nhiên
có thể tối đa 3% của tổng số các đường cơ sở bao quanh một quần đảo nào đó có
một chiều dài lớn hơn nhưng không quá 125 hải lý.
3. Tuyến các đường cơ sở này không được tách xa rõ rệt đường bao quanh
chung của quần đảo.
4. Các đường cơ sở không thể kéo dến hay xuất phát từ các bãi cạn lúc chìm
lúc nổi, trừ trường hợp tại đó có xây đặt các đèn biển hay các thiết bị tương
tự thường xuyên nhô trên mặt biển hoặc trừ trường hợp toàn bộ hay một phần bãi
cạn ở cách hòn đảo gần nhất một khoảng cách không vượt quá chiều rộng lãnh hải.
5. Một quốc gia quần đảo không được áp dụng phương pháp kẻ các đường cơ sở
khiến cho các lãnh hải của một quốc gia khác bị tách rời với biển cả hay với
một vùng đặc quyền kinh tế.
6. Nếu một phần của vùng nước quần đảo của một quốc gia quần đảo nằm giữa
hai mảnh lãnh thổ của một quốc gia kế cận, thì các thuyền và mọi lợi ích chính
đáng mà quốc gia kế cận này vẫn được hưởng theo truyền thống ở trong các vùng
nước nói trên, cũng như tất cả các quyền nảy sinh từ các điều ước được ký kết
giữa hai quốc gia, vẫn tồn tại và vẫn được tôn trọng.
7. Để tính toán tỷ lệ diện tích các vùng nước so với diện tích phần đất đã
nêu ở khoản 1, các vùng nước trên trong các bãi đá ngầm bao quanh các đảo và
vành đai san hô, cũng như mọi phần của một nền đại dương có sườn dốc đất đứng,
hoàn toàn hay gần như hoàn toàn do một chuỗi đảo đá vôi hay một chuỗi các mỏm
đá lúc chìm lúc nổi bao quanh, có thể được coi như là một bộ phận của đất.
8. Các đường cơ sở được vạch ra theo đúng điều này phải được ghi trên hải
đồ có tỷ lệ thích hợp để xác định được vị trí. Bản kê tọa độ địa lý của các
điểm, có ghi rõ hệ thống trắc địa được sử dụng có thể thay thế cho các bản đồ
này.
9. Quốc gia quần đảo công bố theo đúng thủ tục các bản đồ hoặc bảng liệt kê
tọa độ địa lý và gửi đến Tổng thư ký Liên hợp quốc một bản để lưu chiểu.
ĐIỀU 48. Đo chiều rộng lãnh hải, vùng tiếp giáp, vùng đặc
quyền về kinh tế và thềm lục địa
Chiều rộng của lãnh hải, vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền về kinh tế và thềm
lục địa được tính từ cách đường cơ sở quần đảo theo đúng Điều 47.
ĐIỀU 49. Chế độ pháp lý của các vùng nước quần đảo và
vùng trời ở trên cũng như đáy biển tương ứng và lòng đất dưới đáy biển đó
1. Chủ quyền của quốc gia quần đảo mở rộng ra vùng nước ở phía trong đường
cơ sở quần đảo được vạch ra theo đúng Điều 47, được gọi là vùng nước quần đảo
(eaux archipélagiques), bất kể chiều sâu và khoảng cách xa bờ của chúng thế
nào.
2. Chủ quyền này được mở rộng đến vùng trời trên vùng nước quần đảo, cũng
như đến đáy vùng nước đó và lòng đất tương ứng và đến các tài nguyên ở đó.
3. Chủ quyền này được thực hiện theo các điều kiện nêu trong phần này.
4. Chế độ đi qua vùng nước quần đảo do phần này quy định không đụng chạm về
bất kỳ một phương diện nào khác đến chế độ pháp lý của vùng nước quần đảo, kể cả
các đường hàng hải, đến việc quốc gia quần đảo thực hiện chủ quyền của mình ở
vùng nước đó, ở vùng trời phía trên, đáy nước vùng đó và lòng đất tương ứng
cũng như đối với các tài nguyên ở đó.
ĐIỀU 50. Hoạch định ranh giới nội thủy
Ở phía trong vùng nước quần đảo, quốc gia quần đảo có thể vạch những đường
khép kín để hoạch định ranh giới nội thủy của mình theo đúng các Điều 9, 10, và
11.
ĐIỀU 51. Các điều ước hiện hành, các quyền đánh bắt hải
sản truyền thống và các dây cáp ngầm đã được lắp đặt
1. Không phương hại đến Điều 49, các quốc gia quần đảo tôn trọng các điều
ước hiện hành đã được ký kết với các quốc gia khác và thừa nhận các quyền đánh
bắt hải sản truyền thống và những hoạt động chính đáng của những quốc gia kế
cận trong một số khu vực thuộc vùng nước quần đảo và quốc gia quần đảo. Các
điều kiện và thể thức thực hiện các quyền và các hoạt động này, kể cả tính
chất, phạm vi của chúng và cả khu vực thực hiện các quyền và các hoạt động nói
trên, được xác định theo yêu cầu của bất cứ quốc gia nào trong các quốc gia hữu
quan qua các điều ước tay đôi được ký kết giữa các quốc gia đó. Các quyền này
không được chuyển nhượng hay chia sẻ cho quốc gia thứ ba hay cho các công dân
của các quốc gia ấy.
2. Các quốc gia quần đảo tôn trọng các dây cáp ngầm hiện có của những quốc
gia khác đặt và đi quan vùng nước của quốc gia quần đảo mà không đụng đến bờ
biển của mình. Các quốc gia quần đảo cho phép bảo dưỡng và thay thế các đường
dây cáp này sau khi họ đã được thông báo trước về vị trí của chúng và về những
công việc bảo dưỡng hay thay thế dự định tiến hành.
ĐIỀU 52. Quyền đi qua không gây hại
1. Với điều kiện tuân thủ Điều 53 và không phương hại đến Điều 50, tàu
thuyền của tất cả các quốc gia đều được hưởng quyền đi qua không gây hại trong
vùng nước quần đảo đã được quy định ở Mục 3 phần II.
2. Quốc gia quần đảo có thể tạm thời đình chỉ việc đi qua không gây hại của
tàu thuyền nước ngoài trong các khu vực nhất định thuộc vùng nước quần đảo của
mình, nếu biện pháp này là cần thiết để đảm bảo an ninh của nước mình, nhưng
không có sự phân biệt đối xử nào về mặt pháp lý hay về mặt thực tế giữa các tàu
thuyền nước ngoài. Việc đình chỉ này chỉ có hiệu lực sau khi đã được công bố
theo đúng thủ tục.
ĐIỀU 53. Quyền đi qua vùng nước quần đảo
1. Trong các vùng nước quần đảo và lãnh hải tiếp liền, quốc gia quần đảo có
thể ấn định các đường hàng hải và các đường hàng không ở vùng trời phía trên
các đường này để các tàu thuyền và phương tiện bay nước ngoài được đi qua nhanh
chóng và liên tục.
2. Tất cả các tàu thuyền và phương tiện bay được hưởng quyền đi qua quần
đảo theo các tuyến đường hàng hải và các đường hàng không đó.
3. “Đi qua vùng nước quần đảo” là việc các tàu thuyền và phương tiện bay
thực hiện không bị cản trở, theo phương thức hàng hải, hàng không bình thường
và theo đúng Công ước, các quyền hàng hải và hàng không của mình, với mục đích
duy nhất là quá cảnh liên tục và nhanh chóng giữa một điểm của biển cả hay một
vùng đặc quyền kinh tế.
4. Các đường hàng hải và các đường hàng không đi qua các vùng nước quần đảo
và lãnh hải tiếp liền hoặc vùng trời phía trên phải bao gồm tất cả các con
đường thường dùng cho hàng hải quốc tế trong vùng nước quần đảo và vùng trời
phía trên; các đường hàng hải cần theo đúng tất cả các luồng lạch thường dùng
cho hàng hải, tất nhiên, không cần phải thiết lập nhiều con đường thuận tiện
như nhau giữa một điểm vào và một điểm ra nào đó.
5. Các đường hàng hải và hàng không này được xác định qua hàng loạt các
đường trục liên tục nối liền các điểm vào với các điểm ra của chúng. Trong quá
trình đi qua các tàu thuyền và phương tiện bay không được đi chệch các đường
trục này quá 25 hải lý, tất nhiên, các tàu thuyền và phương tiện bay này không
được đi cách bờ một khoảng cách dưới 1/10 khoảng cách giữa những điểm gần nhất
của các đảo nằm dọc theo một con đường.
6. Quốc gia quần đảo khi ấn định các đường hàng hải theo đúng điều này cũng
có thể quy định các cách phân chia luồng giao thông nhằm bảo đảm an toàn cho
các tàu thuyền sử dụng các luồng lạch hẹp ở bên trong các con đường này.
7. Khi hoàn cảnh đòi hỏi, quốc gia quần đảo, sau khi đã công bố theo đúng
thủ tục, có thể ấn định những đường hàng hải mới hay quy định cách bố trí phân
chia luồng giao thông mới để thay thế cho mọi con đường hay mọi cách phân chia
luồng giao thông do quốc gia đó đã thiết lập từ trước.
8. Các đường hàng hải và cách phân chia luồng giao thông đó phải phù hợp
với quy định quốc tế được chấp nhận chung.
9. Khi ấn định hay thay thế các đường hàng hải hoặc khi quy định hay khi
thay thế các cách bố trí phân luồng giao thông, quốc gia quần đảo gửi các đề
nghị của mình cho tổ chức quốc tế có thẩm quyền để được chấp nhận. Tổ chức quốc
tế này chỉ có thể được chấp thuận các đường hàng hải và các cách bố trí phân
chia luồng giao thông mà họ đã có thể thỏa thuận với quốc gia quần đảo; khi đó,
quốc gia quần đảo có thể ấn định, quy định hay thay thế các đường hàng hải và
các cách phân chia luồng giao thông đó.
10. Quốc gia quần đảo ghi rõ ràng lên các hải đồ được công bố theo đúng thủ
tục các đường trục của các đường hàng hải mà quốc gia đó ấn định và các cách
phân chia luồng giao thông mà quốc gia đó quy định.
11. Khi đi qua vùng quần đảo, các tàu thuyền tôn trọng các đường hàng hải
và các cách chia phân luồng giao thông được thiết lập theo đúng điều này.
12. Nếu quốc gia quần đảo không ấn định các đường hàng hải hay các đường
hàng không thì quyền đi qua vùng nước quần đảo có thể thực hiện bằng cách sử
dụng các con đường thường dùng cho hàng hải và hàng không quốc tế.
ĐIỀU 54. Các nghĩa vụ của tàu thuyền và phương tiện bay
trong khi đi qua, nghiên cứu và đo đạc thủy văn, các nghĩa vụ của quốc gia quần
đảo, các luật và quy định của quốc gia quần đảo liên quan đến việc đi qua quần
đảo
Các Điều 39, 40, 42, 44 được áp dụng Mutatis mutandis (với những thay đổi
cần thiết về chi tiết) cho việc đi qua vùng quần đảo.
PHẦN V
VÙNG ĐẶC QUYỀN KINH TẾ
ĐIỀU 55. Chế độ pháp lý riêng của vùng đặc quyền về kinh
tế
Vùng đặc quyền về kinh tế là một vùng nằm ở phía ngoài lãnh hải và tiếp
liền với lãnh hải, đặt dưới chế độ pháp lý riêng quy định trong phần này, theo
đó các quyền và quyền tài phán của quốc gia ven biển và các quyền tự do của các
quốc gia khác đều do các quy định thích hợp của Công ước điều chỉnh.
ĐIỀU 56. Các quyền, quyền tài phán và các nghĩa vụ của
các quốc gia ven biển trong vùng đặc quyền về kinh tế
1. Trong vùng đặc quyền về kinh tế, quốc gia ven biển có:
a) Các quyền thuộc chủ quyền về việc thăm dò khai thác, bảo tồn và quản lý
các tài nguyên thiên nhiên, sinh vật hoặc không sinh vật, của vùng nước bên
trên đáy biển, của đáy biển và lòng đất dưới đáy biển, cũng như về những hoạt
động khác nhằm thăm dò và khai thác vùng này vì mục đích kinh tế, như việc sản
xuất năng lượng từ nước, hải lưu và gió.
b) Quyền tài phán theo đúng những quy định thích hợp của Công ước về việc:
i. Lắp đặt và sử dụng các đảo nhân tạo, các thiết bị và công trình;
ii. Nghiên cứu khoa học về biển;
iii. Bảo vệ và gìn giữ môi trường biển;
c) Các quyền và các nghĩa vụ khác do Công ước quy định.
2. Trong vùng đặc quyền về kinh tế, khi thực hiện các quyền và làm các
nghĩa vụ của mình theo Công ước, quốc gia ven biển phải tính đến các quyền và
nghĩa vụ của các quốc gia khác và hành động phù hợp với Công ước.
3. Các quyền có liên quan đến đáy biển và lòng đất dưới đáy biển nêu trong
điều này được thực hiện theo đúng phần VI.
ĐIỀU 57. Chiều rộng của vùng đặc quyền về kinh tế
Vùng đặc quyền về kinh tế không được mở rộng ra quá 200 hải lý kể từ đường
cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải.
ĐIỀU 58. Các quyền và các nghĩa vụ của các quốc gia khác
trong vùng đặc quyền về kinh tế
1. Trong vùng đặc quyền về kinh tế, tất cả các quốc gia, dù có biển hay
không có biển, trong những điều kiện trong những quy định thích hợp của Công
ước trù định, được hưởng các quyền tự do hàng hải và hàng không, quyền tự do
đặt dây cáp ngầm nêu ở Điều 87, cũng như quyền tự do sử dụng biển vào những mục
đích khác hợp pháp về mặt quốc tế và gắn liền với việc thực hiện các quyền tự
do này và phù hợp với các quy định khác của Công ước, nhất là những khuôn khổ
việc khai thác các tàu thuyền, phương tiện bay và dây cáp, ống dẫn ngầm.
2. Các Điều từ 88 đến 115, cũng như các quy tắc thích hợp khác của pháp
luật quốc tế, được áp dụng ở vùng đặc quyền kinh tế trong chừng mực mà chúng
không mâu thuẫn với phần này.
3. Trong vùng đặc quyền về kinh tế, khi thực hiện các quyền và làm các
nghĩa vụ của mình theo Công ước, các quốc gia phải tính đến các quyền và các
nghĩa vụ của quốc gia ven biển và tôn trọng các luật và quy định mà quốc gia
ven biển đã ban hành theo đúng các quy định của Công ước và trong chừng mực mà
các luật và quy định đó không mâu thuẫn với phần này và với các quy tắc khác
của pháp luật quốc tế.
ĐIỀU 59. Cơ sở giải quyết các tranh chấp trong trường hợp
Công ước không quy định rõ các quyền và quyền tài phán trong vùng đặc quyền về kinh
tế
Trong những trường hợp Công ước không quy định rõ các quyền hay quyền tài
phán trong các vùng đặc quyền về kinh tế cho quốc gia ven biển hay cho các quốc
gia khác và ở đó có xung đột giữa lợi ích của quốc gia ven biển với lợi ích của
một hay nhiều quốc khác thì sự xung đột này phải được giải quyết trên cơ sở
công bằng và có chú ý đến tất cả mọi hoàn cảnh thích đáng, có tính đến tầm quan
trọng của các lợi ích có liên quan đó đối với các bên tranh chấp và đối với
toàn bộ cộng đồng quốc tế.
ĐIỀU 60. Các đảo nhân tạo, thiết bị và công trình trong
vùng đặc quyền về kinh tế
1. Trong vùng đặc quyền về kinh tế, quốc gia ven biển có đặc quyền tiến
hành xây dựng, cho phép và quy định việc xây dựng, khai thác và sử dụng:
a) Các đảo nhân tạo;
b) Các thiết bị và công trình dùng vào các mục đích
được trù định ở Điều 56 hoặc các mục đích kinh tế khác;
c) Các thiết bị và công trình có thể gây trở ngại cho
việc thực hiện các quyền của quốc gia ven biển trong vùng.
2. Quốc gia ven biển có quyền tài phán đặc biệt đối
với các đảo nhân tạo, các thiết bị và các công trình đó, kể cả về mặt các luật
và quy định hải quan, thuế khóa, y tế, an ninh và nhập cư.
3. Việc xây dựng các đảo nhân tạo, thiết bị và công
trình đó phải được thông báo theo đúng thủ tục, và việc duy trì các phương tiện
thường trực để báo hiệu sự có mặt của các đảo, thiết bị và công trình nói trên
cần được bảo đảm. Các thiết bị hay công trình đã bỏ hoặc không dùng đến nữa cần
được tháo dỡ để đảm bảo an toàn hàng hải, có tính đến những quy phạm quốc tế đã
được chấp nhận chung do tổ chức quốc tế có thẩm quyền đặt ra về mặt đó. Khi
tháo dỡ phải tính đến việc đánh bắt hải sản, bảo vệ môi trường biển, các quyền
và các nghĩa vụ của quốc gia khác. Cần thông báo thích đáng về vị trí, kích
thước và độ sâu của những phần còn lại của một thiết bị hoặc công trình chưa
được tháo dỡ hoàn toàn.
4. Quốc gia ven biển, nếu cần, có thể lập ra xung
quanh các đảo nhân tạo, các thiết bị hoặc công trình đó những khu vực an toàn
với kích thước hợp lý; trong các khu vực đó, quốc gia ven biển có thể áp dụng
các biện pháp thích hợp để bảo đảm an toàn hàng hải, cũng như an toàn của các
đảo nhân tạo, các thiết bị và công trình đó.
5. Quốc gia ven biển ấn định chiều rộng của những khu
vực an toàn có tính đến các quy phạm quốc tế có thể áp dụng được. Các khu vực
an toàn này được xác định sao cho đáp ứng một cách hợp lý với tính chất và chức
năng của các đảo nhân tạo, các thiết bị và các công trinh, và không thể mở rộng
ra một khoảng cách quá 500m xung quanh các đảo nhân tạo, các thiết bị và các
công trình, tính từ mỗi điểm của mép ngoài cùng của các đảo nhân tạo, thiết bị
và các công trình dó, trừ ngoại lệ do các vi phạm của quốc tế đã được thừa nhận
chung cho phép hoặc tổ chức quốc tế có thẩm quyền kiến nghị. Phạm vi của khu
vực an toàn được thông báo theo đúng thủ tục.
6. Tất cả các tàu thuyền phải tôn trọng các khu vực an
toàn đó và tuân theo các tiêu chuẩn quốc tế được chấp nhận chung liên quan đến
hàng hải trong khu vực của các đảo nhân tạo, các thiết bị, các công trình và
các khu vực an toàn.
7. Không được xây dựng những đảo nhân tạo, thiết bị
hoặc công trình, không được thiết lập các khu vực an toàn xung quanh các đảo,
thiết bị, công trình đó khi việc đó có nguy cơ gây trở ngại cho việc sử dụng
các đường hàng hải đã được thừa nhận là thiết yếu cho hàng hải quốc tế.
8. Các đảo nhân tạo, các thiết bị và công trình không
được hưởng quy chế của các đảo. Chúng không có lãnh hải riêng và sự có mặt của
chúng không có tác động gì đối với việc hoạch định ranh giới lãnh hải, vùng đặc
quyền về kinh tế hoặc thềm lục địa.
ĐIỀU 61. Bảo tồn các nguồn lợi sinh vật
1. Quốc gia ven biển ấn định khối lượng đánh bắt có
thể chấp nhận được đối với các tài nguyên sinh vật ở trong vùng đặc quyền về
kinh tế của mình.
2. Quốc gia ven biển dựa vào các số liệu khoa học đáng
tin cậy nhất mà mình có, thi hành các biện pháp thích hợp về bảo tồn và quản lý
nhằm làm cho việc duy trì các nguồn lợi sinh vật trong vùng đặc quyền kinh tế
của mình khỏi bị ảnh hưởng do khai thác quá mức. Quốc gia ven biển và các tổ chức
quốc tế có thẩm quyền, các tổ chức phân khu vực, khu vực hay thế giới, hợp tác
với nhau một cách thích hợp để thực hiện mục đích này.
3. Các biện pháp đó cũng nhằm để duy trì hay khôi phục
các đàn (stocks) hải sản được khai thác ở mức bảo đảm đạt năng suất ổn dịnh tối
đa, có tính đến các yếu tố sinh thái và kinh tế thích đáng, kể cả các nhu cầu
kinh tế của tập thể ven bờ sống về nghề đánh bắt hải sản và các nhu cầu riêng
của các quốc gia đang phát triển, và có tính dến các phương thức đánh bắt, đến quan
hệ hỗ tương giữa các đàn (stocks) và đến tất cả các quy phạm quốc tế tối thiểu
thường được kiến nghị ở cấp phân khu vực, khu vực hay thế giới.
4. Khi áp dụng các biện pháp đó, quốc gia ven biển chú
ý đến tác động của chúng đối với các loài quần hợp với các loài được khai thác
hoặc phụ thuộc vào các loài đó để duy trì hoặc khôi phục các đàn (stocks) của
những loài quần hợp hay phụ thuộc này ở một mức độ làm việc sinh sản của chúng
khỏi nguy cơ bị tổn hại nghiêm trọng.
5. Các thông tin khoa học có thể sử dụng, các số liệu
thống kê liên quan đến việc đánh bắt và đến sức đánh bắt và các số liệu khác
liên quan đến việc bảo tồn các đàn (stocks) cá được phổ biến và trao đổi đều
đặn qua trung gian của các tổ chức quốc tế có thẩm quyền, các tổ chức phân khu
vực hoặc thế giới và khi có điều kiện thì tiến hành với sự tham gia của tất cả
các quốc gia hữu quan, nhất là các quốc gia có công dân được phép đánh bắt
trong vùng đặc quyền về kinh tế.
ĐIỀU 62. Khai thác tài nguyên sinh vật
1. Quốc gia ven biển xác định mục tiêu là tạo điều
kiện thuận lợi cho việc khai thác tối ưu các tài nguyên sinh vật của vùng đặc
quyền về kinh tế mà không phương hại đến Điều 61.
2. Quốc gia ven biển xác định khả năng của mình trong
việc khai thác các tài nguyên sinh vật trong vùng đặc quyền về kinh tế. Nếu khả
năng khai thác đó thấp hơn tổng khối lượng đánh bắt có thể chấp nhận thì quốc
gia ven biển cho phép các quốc gia khác, qua điều ước hoặc các thỏa thuận khác
và theo đúng các thể thức, điều kiên, các luật và quy định nói ở khoản 4, khai
thác số dư của khối lượng cho phép đánh bắt; khi làm như vậy, cần đặc biệt quan
tâm đến các Điều 69 và 70 nhất là quan tâm đến các quốc gia đang phát triển nói
trong các điều đó.
3. Khi đồng ý cho các quốc gia khác vào hoạt động
trong vùng đặc quyền về kinh tế của mình theo điều này, quốc gia ven biển tính
đến tất cả các yếu tố thích đáng, trong đó có: tấm quan trọng của các tài
nguyên sinh vật thuộc khu vực đối với nền kinh tế và đối với các lợi ích quốc
gia khác của nước mình; các Điều 69 và 70, các nhu cầu của các quốc gia đang
phát triển trong khu vực hay phân khu vực về vấn đề khai thác một phần của số
dư, và sự cần thiết phải giảm bớt đến mức tối thiểu những rối loạn kinh tế
trong các quốc gia nào có những công dân thường đánh bắt hải sản ở trong khu
vực hoặc đã đóng góp nhiều vào công tác tìm kiếm và thống kê các đàn (stocks)
hải sản.
4. Công dân của các quốc gia khác khi tiến hành đánh
bắt trong vùng đặc quyền về kinh tế phải tuân thủ theo các biện pháp bảo tồn và
các thể thức, các điều kiện khác được đề ra trong các luật và quy định của quốc
gia ven biển. Các luật và quy định đó phải phù hợp với Công ước và đặc biệt có
thể đề cập các vấn đề sau đây:
a) Việc cấp giấy phép cho ngư dân hay tàu thuyền và
phương tiện đánh bắt, kể cả việc nộp thuế hay mọi khoản phải trả khác, trong
trường hợp đối với các quốc gia ven biển đang phát triển, có thể là một sự đóng
góp thích đáng vào ngân sách, vào việc trang bị và vào sự phát triển kỹ thuật
của công nghiệp đánh bắt hải sản;
b) Chỉ rõ các chủng loại cho phép đánh bắt và ấn định
tỉ lệ phần trăm, hoặc là đối với các đàn (stocks) hay các nhóm đàn hải sản
riêng biệt hoặc đối với số lượng đánh bắt của từng chiếc tàu trong một khoảng
thời gian nhất định, hoặc là đối với số lượng đánh bắt của các công dân của một
quốc gia trong một thời kỳ nhất định;
c) Quy định các mùa vụ và các khu vực đánh bắt, kiểu,
cỡ và số lượng các phương tiện đánh bắt, cũng như kiểu, cỡ và số lượng tàu
thuyền đánh bắt có thể được sử dụng;
d) Ấn định tuổi và cỡ cá và các sinh vật khác có thể
được đánh bắt;
e) Các thông tin mà tàu thuyền đánh bắt phải báo cáo,
đặc biệt là những số liệu thống kê liên quan đến việc đánh bắt và sức đánh bắt
và thông báo vị trí cho các tàu thuyền;
f) Nghĩa vụ tiến hành, với sự cho phép và dưới sự kiểm
soát của quốc gia ven biển, các chương trình nghiên cứu này, kể cả việc lấy mẫu
các thứ đánh bắt được, nơi nhận các mẫu và việc thông báo các số liệu khoa học
có liên quan;
g) Việc quốc gia ven biển đặt các quan sát viên hay
thực tập sinh trên các tàu thuyền đó;
h) Bốc dỡ toàn bộ hay một phần các sản phẩm đánh bắt
được của các tàu thuyền đó ở các cảng của quốc gia ven biển;
i) Các thể thức và điều kiện liên quan đến các xí
nghiệp liên doanh hoặc các hình thức hợp tác khác;
j) Các điều kiện cần thiết về mặt đào tạo nhân viên,
về chuyển giao kỹ thuật trong lĩnh vực đánh bắt hải sản, kể cả việc đẩy mạnh
khả năng nghiên cứu nghề cá của quốc gia ven biển;
k) Các biện pháp thi hành.
5. Quốc gia ven biển phải thông báo theo đúng thủ tục
các luật và quy định mà mình ban hành về mặt bảo tồn quản lý.
ĐIỀU 63. Các đàn cá (stocks) ở trong vùng độc quyền về
kinh tế của nhiều quốc gia ven biển hoặc đồng thời ở trong vùng đặc quyền về
kinh tế và trong một khu vực tiếp liền với vùng đặc quyền về kinh tế
1. Khi cùng một đàn (stocks) cá hoặc những đàn
(stocks) các loài quần hợp ở trong vùng đặc quyền về kinh tế của nhiều quốc gia
ven biển, các quốc gia này cố gắng, trực tiếp hoặc qua trung gian của các tổ
chức phân khu vực hay khu vực thích hợp, thỏa thuận với nhau về các biện pháp
cần thiết nhằm phối hợp hoặc bảo đảm việc bảo tồn và phát triển các đàn cá đó
mà không phương hại đến các quy định khác của phần này.
2. Khi cùng một đàn cá hoặc những đàn các loài quần
hợp đồng thời ở trong vùng đặc quyền về kinh tế và ở trong một khu vực tiếp
liền với vùng đó, quốc gia ven biển và các quốc gia khác khai thác các đàn này
ở trong khu vực tiếp liền cố gắng trực tiếp hoặc qua trung gian của các tổ chức
phân khu vực hay khu vực thích hợp, thỏa thuận với nhau về các biện pháp cần
thiết để bảo tồn các đàn cá này trong khu vực tiếp liền.
ĐIỀU 64. Các loài cá di cư xa (Grands migranteurs)
1. Quốc gia ven biển và các quốc gia khác có công dân
chuyên đánh bắt trong khu vực những loài cá di cư xa ghi ở bảng danh mục của
Phụ lục I, cần trực tiếp hoặc qua trung gian của các tổ chức quốc tế thích hợp,
hợp tác với nhau nhằm bảo đảm việc bảo tồn các loài cá nói trên và đẩy mạnh
việc khai thác tối ưu các loài cá đó trong toàn bộ khu vực, ở trong cũng như ở
ngoài vùng đặc quyền về kinh tế. Trong những khu vực không có tổ chức quốc tế
thích hợp, thì quốc gia ven biển và các quốc gia khác có công dân khai thác các
loài cá đó trong khu vực, hợp tác với nhau để lập ra một tổ chức như thế và
tham gia vào khu vực của tổ chức này.
2. Khoản 1 được áp dụng thêm vào các quy định khác của
phần này.
ĐIỀU 65. Loài có vú ở biển (Mammiferes marins)
Không một quy định nào của phần này hạn chế quyền của
một quốc gia ven biển cấm, hạn chế hay quy định việc khai thác các loài có vú ở
biển chặt chẽ hơn những quy định của phần này, cũng như hạn chế thẩm quyền của
một tổ chức quốc tế về việc này nếu có. Các quốc gia hợp tác với nhau nhằm bảo
đảm việc bảo vệ các loài có vú ở biển và đặc biệt là qua trung gian của các tổ
chức quốc tế thích hợp, tìm mọi cách để bảo vệ, quản lý và nghiên cứu loài cá
voi.
ĐIỀU 66. Các đàn cá vào sông sinh sản (Stocks de
poissons anadromes)
1. Các quốc gia có các dòng sông mà ở đó các đàn cá
(Poissons anadromes) vào sinh sản là những nước đầu tiên phải quan tâm đến các
đàn cá này và phải chịu trách nhiệm trước hết về loại cá này.
2. Quốc gia nguồn gốc của các đàn cá vào sông sinh sản
cần chăm lo đến việc bảo tồn các đàn cá đó bằng việc thi hành những biện pháp
thích hợp quy định việc đánh bắt trong tất cả các vùng nước nằm bên trong ranh
giới ngoài của vùng đặc quyền về kinh tế, cũng như việc đánh bắt nói ở khoản 3,
điểm b. Quốc gia nguồn gốc có thể xác định tổng số được phép đánh bắt các loài
cá được sinh sản ra từ các dòng sông của họ, sau khi đã tham khảo các quốc gia
nói trong các khoản 3 và 4 đang khai thác các đàn cá đó.
3. a) Chỉ có thể đánh bắt các đàn cá vào sông sinh sản
trong các vùng nước nằm bên trong ranh giới ngoài của các vùng đặc quyền về
kinh tế, trừ các trường hợp mà việc áp dụng quy định này có thể dẫn đến những
rối loạn kinh tế cho một quốc gia không phải là quốc gia nguồn gốc. Đối với
việc đánh bắt bên ngoài ranh giới phía ngoài của các vùng đặc quyền về kinh tế,
các quốc gia hữu quan cần tham khảo ý kiến của nhau để thỏa thuậ về các thể
thức và điều kiện của việc đánh bắt này, nhưng phải tính đến các đòi hỏi của
việc bảo tồn và các nhu cầu của quốc gia nguồn gốc về đàn (stoscks) cá đó.
b) Quốc gia nguồn gốc góp phần giảm bớt đến mức tối
thiểu những rối loạn về kinh tế trong các quốc gia khác đang tiến hành khai
thác các loài cá này bằng cách tính đến việc đánh bắt bình thường của các quốc
gia này và đến các cách mà họ khai thác đàn cá đó, cũng như đến tất cả các khu
vực mà các đàn cá đó được khai thác.
c) Các quốc gia nói ở điểm b tham gia qua sự thỏa
thuận với các quốc gia nguồn gốc, vào những biện pháp bảo đảm khôi phục các đàn
cá vào sông sinh sản, đặc biệt là bằng cách đóng góp tài chính cho các biện
pháp này; các quốc gia đó được quốc gia nguồn gốc quan tâm đặc biệt trong việc
khai thác các loài cá được sinh sản ra từ các dòng sông của mình.
d) Việc áp dụng quy định liên quan đến các đàn cá vào
sông sinh sản ở ngoài vùng đặc quyền về kinh tế được bảo đảm qua sự thỏa thuận
giữa quốc gia nguồn gốc và các quốc gia hữu quan khác.
4. Khi các đàn cá vào sông sinh sản di cư đến các vùng
nước hoặc đi qua các vùng nước nằm bên trong ranh giới ngoài của vùng đặc quyền
về kinh tế của một quốc gia không phải là quốc gia nguồn gốc, quốc gia này hợp
tác với quốc gia nguồn gốc nhằm bảo tồn và quản lý các đàn cá đó.
5. Quốc gia nguồn gốc của các đàn cá vào sông sinh sản
và các quốc gia khác đánh bắt cá này ký kết các thỏa thuận nhằm áp dụng điều
này, nếu có thể được thì qua trung gian của các tổ chức khu vực.
ĐIỀU 67. Các loài cá ra biển sinh sản (espèces
catadromes)
1. Một quốc gia ven biển mà trong vùng nước của mình
loài cá ra biển sinh sản sống phần lớn cuộc đời của chúng chịu trách nhiệm quản
lý chúng và chăm lo đến việc các loài cá này vào hoặc ra khỏi vùng nước đó.
2. Chỉ được khai thác các loài cá ra biển sinh sản
trong những vùng nước bên trong các ranh giới ngoài của các vùng đặc quyền về
kinh tế. Trong các vùng đặc quyền về kinh tế, việc khai thác được tiến hành
theo điều này và các quy định khác của Công ước liên quan đến việc đánh bắt
trong các vùng này.
3. Trong những trường hợp mà các loài cá ra biển sinh
sản, dù đã đến hay chưa đến thời kỳ sinh sản, di cư qua vùng đặc quyền về kinh
tế của một quốc gia khác thì việc quản lý các loài cá này, kể cả việc khai
thác, được quy định qua thỏa thuận giữa quốc gia nói ở khoản 1 và quốc gia hữu
quan kia. Thỏa thuận này cần được bảo đảm việc quản lý hợp lý các loài cá được
xem xét và có tính đến trách nhiệm của quốc gia nói ở khoản 1 về việc bảo tồn
các loài này.
ĐIỀU 68. Các loài định cư (espèces sédentaires)
Phần này không áp dụng đối với các loài định cư, như đã được quy định ở
Điều 77, khoản 4.
ĐIỀU 69. Quyền của các quốc gia không có biển
1. Một quốc gia không có biển có quyền tham gia, theo một thể thức công
bằng, khai thác một phần thích hợp số dư các tài nguyên sinh vật của các vùng
đặc quyền về kinh tế của các quốc gia ven biển trong cùng một phân khu vực hoặc
khu vực, có tính đến các đặc điểm kinh tế và địa lý thích đáng của tất cả các
quốc gia hữu quan và theo đúng điều này và các Điều 61 và 62.
2. Các điều kiện và các thể thức của việc tham gia này được các quốc gia
hữu quan ấn định thông qua thỏa thuận tay đôi, phân khu vực hay khu vực, đặc
biệt tính đến:
a) Sự cần thiết phải tránh mọi động tác có hại cho cộng đồng những người
đánh bắt hoặc cho công nghiệp đánh bắt của các quốc gia ven biển;
b) Mức độ quốc gia không có biển, theo đúng điều này, tham gia hoặc có
quyền tham gia, theo các thỏa thuận tay đôi, phân phu vực hay khu vực hiện
hành, vào việc khai thác các tài nguyên sinh vật của các vùng đặc quyền về kinh
tế của các quốc gia ven biển khác;
c) Mức độ các quốc gia không có biển khác hoặc các quốc gia bất lợi về địa
lý tham gia vào việc khai thác các tài nguyên sinh vật của vùng đặc quyền về
kinh tế cuả quốc gia ven biển và sự cần thiết tránh cho quốc gia ven biển nào
đó hoặc cho khu vực nào đó của quốc gia này một gánh nặng đặc biệt;
d) Những nhu cầu thực phẩm của dân cư ở các quốc gia được xem xét.
3. Khi khả năng đánh bắt của một quốc gia ven biển cho phép một mình quốc
gia đó có thể đánh bắt được hầu như toàn bộ khối lượng đánh bắt có thể chấp
nhận, được ấn định cho việc khai thác các tài nguyên sinh vật trong vùng đặc
quyền về kinh tế của mình thì quốc gia đó và các quốc gia hữu quan khác hợp tác
với nhau để ký kết các thỏa thuận tay đôi, phân khu vực hoặc khu vực một cách
công bằng cho phép các quốc gia đang phát triển không có biển trong cùng khu
vực hay phân khu vực đó tham gia một cách thích hợp vào việc khai thác những
tài nguyên sinh vật của các vùng đặc quyền về kinh tế của các quốc gia ven biển
thuộc phân khu vực hay khu vực, có tính đến các hoàn cảnh và điều kiện thỏa
đáng đối với tất cả các bên. Để áp dụng điều quy định này, cũng cần tính đến
các yếu tố đã nêu ở khoản 2.
4. Các quốc gia phát triển không có biển chỉ có quyền tham gia khai thác các
tài nguyên sinh vật theo điều này, trong các vùng đặc quyền về kinh tế của các
quốc gia ven biển phát triển ở trong cùng phân khu vực hay khu vực, có tính đến
chừng mực mà quốc gia ven biển, khi cho các quốc gia khác vào khai thác tài
nguyên sinh vật trong vùng đặc quyền kinh tế của mình, đã xem xét sự cần thiết
phải giảm đến mức tối thiểu những tác hại đối với cộng đồng những người đánh
bắt cũng như những rối loạn kinh tế trong các quốc gia có công dân vẫn thường
tiến hành việc đánh bắt trong vùng.
5. Các quy định nói trên được áp dụng không phương hại đến các thỏa thuận
được ký kết nếu có trong các phân khu vực hay khu vực, mà ở đó các quốc gia ven
biển có thể dành cho các quốc gia không có biển ở cùng phân khu vực hay khu vực
đó những quyền ngang nhau, hoặc ưu tiên để khai thác các tài nguyên sinh vật ở
vùng đặc quyền về kinh tế của mình.
ĐIỀU 70. Quyền của các quốc gia bất lợi về địa lý
1. Các quốc gia bất lợi về địa lý có quyền tham gia, theo một thể thức công
bằng, vào việc khai thác một phần thích hợp số dư của những tài nguyên sinh vật
trong các vùng đặc quyền về kinh tế của các quốc gia ven biển ở cùng phân khu
vực hay khu vực, có tính đến các đặc điểm kinh tế và địa lý thích đáng của tất
cả các quốc gia hữu quan và theo đúng điều này và các Điều 61 và 62.
2. Trong phần này, thuật ngữ “quốc gia bất lợi về địa lý” có nghĩa là các
quốc gia ven biển, kể cả các quốc gia ở ven bờ một biển kín hoặc nửa kín, mà vị
trí địa lý của họ làm cho họ phải lệ thuộc vào việc khai thác những tài nguyên
sinh vật ở các vùng đặc quyền về kinh tế của các quốc gia khác trong phân khu
vực hoặc khu vực để có đủ cá dùng làm thực phẩm cung cấp cho dân cư hay một bộ
phận dân cư của họ, cũng như các quốc gia ven biển không thể có một vùng đặc
quyền kinh tế riêng.
3. Các điều kiện và thể thức của việc tham gia đó được các quốc gia hữu
quan ấn định thông qua con đường thỏa thuận tay đôi, phân khu vực hay khu vực,
đặc biệt có tính đến:
a) Sự cần thiết phải tránh mọi tác hại cho cộng đồng những người đánh bắt
hay cho công nghiệp đánh bắt của các quốc gia ven biển;
b) Mức độ quốc gia bất lợi về địa lý, theo đúng điều này, tham gia hoặc có
quyền tham gia theo các thỏa thuận tay đôi, phân khu vực hay khu vực hiện hành,
vào việc khai thác các tài nguyên sinh vật của vùng đặc quyền về kinh tế của
các quốc gia ven biển khác;
c) Mức độ các quốc gia bất lợi về địa lý khác và các quốc gia không có biển
tham gia vào việc khai thác tài nguyên sinh vật của vùng đặc quyền về kinh tế
của quốc gia ven biển và sự cần thiết tránh cho quốc gia ven biển nào đó hoặc
cho khu vực nào đó của quốc gia ấy phải chịu một gánh nặng đặc biệt;
d) Những nhu cầu về thực phẩm của dân cư ở các quốc gia được xem xét.
4. Khi khả năng đánh bắt của một quốc gia ven biển cho phép một mình quốc
gia đó có thể đánh bắt được hầu như toàn bộ khối lượng đánh bắt có thể chấp
nhận, được ấn định cho việc khai thác các tài nguyên sinh vật trong vùng đặc
quyền về kinh tế của mình, quốc gia đó và các quốc gia hữu quan khác hợp tác
với nhau để ký kết các thỏa thuận tay đôi, phân khu vực hay khu vực một cách
công bằng, cho phép các quốc gia đang phát triển bất lợi về địa lý trong cùng
một phân khu vực hay khu vực đó tham gia một cách thích hợp vào việc khai thác
những tài nguyên sinh vật của các vùng đặc quyền về kinh tế của các quốc gia
ven biển trong phân khu vực hay khu vực, có tính đến các hoàn cảnh và các điều
kiện thỏa đáng đối với tất cả các bên. Để áp dụng điều quy định này, cũng cần
tính đến các yếu tố đã nêu ở khoản 3.
5. Các quốc gia phát triển bất lợi về địa lý chỉ có quyền tham gia vào việc
khai thác tài nguyên sinh vật, theo điều này, trong các vùng đặc quyền về kinh
tế của các quốc gia phát triển ở cùng một phân khu vực hay khu vực, có tính đến
chừng mực mà quốc gia ven biển, trong khi cho các quốc gia khác vào khai thác
tài nguyên sinh vật trong vùng đặc quyền kinh tế của mình, đã xem xét sự cần
thiết phải giảm đến mức tối thiểu những tác hại đối với cộng đồng những người
đánh bắt, cũng như những rối loạn kinh tế trong các quốc gia có công dân vẫn
thường tiến hành đánh bắt ở trong vùng.
6. Các quy định trên được áp dụng không phương hại đến các thỏa thuận được
ký kết nếu có trong các phân khu vực hoặc khu vực mà ở đó các quốc gia ven biển
có thể dành cho các quốc gia bất lợi về địa lý trong cùng khân khu vực hay khu
vực các quyền ngang nhau hoặc ưu tiên để khai thác các tài nguyên sinh vật ở
vùng đặc quyền về kinh tế của mình.
ĐIỀU 71. Trường hợp các Điều 69 và 70 không thể áp dụng
được
Các Điều 69 và 70 không áp dụng đối với các quốc gia ven biển có nền kinh
tế lệ thuộc rất nặng nề vào việc khai thác tài nguyên sinh vật ở vùng đặc quyền
về kinh tế của mình.
ĐIỀU 72. Những hạn chế về chuyển giao các quyền.
1. Các quyền khai thác các tài nguyên sinh vật nêu ở các Điều 69 và 70
không thể chuyển giao trực tiếp hay gián tiếp cho các quốc gia thứ ba hay cho
các công dân của các quốc gia này, dù bằng con đường cho thuê hay bằng giấy
phép, hoặc bằng việc thành lập các xí nghiệp liên doanh hay bằng bất cứ một
thỏa thuận nào khác mà tác dụng là tạo ra một sự chuyển giao như thế, trừ
trường hợp các quốc gia hữu quan có thỏa thuận khác.
2. Điều quy định trên không ngăn cấm các quốc gia hữu quan nhận của quốc
gia thứ ba hay các tổ chức quốc tế sự trợ giúp về kỹ thuật hay tài chính nhằm
làm dễ dàng cho việc thực hiện các quyền của họ theo đúng Điều 69 và 70, với
điều kiện là việc này không dẫn đến một tác dụng nói ở khoản 1.
ĐIỀU 73. Thi hành các luật và quy định của quốc gia ven
biển
1. Trong việc thực hiện các quyền thuộc chủ quyền về thăm dò, khai thác,
bảo tồn và quản lý các tài nguyên sinh vật của vùng đặc quyền về kinh tế, quốc
gia ven biển có thể thi hành mọi biện pháp cần thiết, kể cả việc khám xét, kiểm
tra, bắt giữ và khởi tố tư pháp để bảo đảm việc tôn trọng các luật và quy định
mà mình đã ban hành theo đúng Công ước.
2. Khi có một sự bảo lãnh hay một bảo đảm đầy đủ khác thì cần thả ngay
chiếc tàu bị bắt và trả tự do ngay cho đoàn thủy thủ của chiếc tàu này.
3. Các chế tài do quốc gia ven biển trù định đối với những vụ vi phạm các
luật và quy định về mặt đánh bắt trong vùng đặc quyền về kinh tế không được bao
gồm hình phạt tống giam, trừ khi các quốc gia hữu quan có thỏa thuận khác, và
không bao gồm một hình phạt thân thể nào khác.
4. Trong trường hợp bắt hay giữ một tàu thuyền nước ngoài, quốc gia ven
biển thông báo ngay cho quốc gia mà tàu mang cờ biết, bằng các con đường thích
hợp, các biện pháp được áp dụng cũng như các chế tài có thể sẽ được tuyên bố
sau đó.
ĐIỀU 74. Hoạch định ranh giới vùng đặc quyền về kinh tế
giữa các quốc gia có bờ biển tiếp liền hay đối diện nhau
1. Việc hoạch định ranh giới vùng đặc quyền về kinh tế giữa các quốc gia có
bờ biển tiếp liền hay đối diên nhau được thực hiện bằng con đường thỏa thuận
theo đúng với pháp luật quốc tế như đã nêu ở Điều 38 của Quy chế Tòa án quốc tế
để đi đến một giải pháp công bằng.
2. Nếu không đi tới được một thỏa thuận trong một thời gian hợp lý thì các
quốc gia hữu quan sử dụng các thủ tục nêu ở phần XV.
3. Trong khi chờ ký kết thỏa thuận ở khoản 1, các quốc gia hữu quan, trên
tinh thần hiểu biết và hợp tác, làm hết sức mình để đi đến các dàn xếp tạm thời
có tính chất thực tiễn và không phương hại hay cản trở việc ký kết các thỏa
thuận dứt khoát trong giai đoán quá độ này. Các dàn xếp tạm thời không phương
hại đến hoạch định cuối cùng.
4. Khi một điều ước đang có hiệu lực giữa các quốc gia hữu quan, các vấn đề
liên quan đến việc hoạch định ranh giới vùng đặc quyền về kinh tế được giải
quyết theo đúng điều ước đó.
ĐIỀU 75. Các hải đồ và các bản kê tọa độ địa lý
1. Với điều kiện tuân thủ phần này, các ranh giới phía ngoài của vùng đặc
quyền về kinh tế và các đường hoạch định ranh giới được vạch theo đúng Điều 74
đều được ghi lên các hải đồ có tỷ lệ thích hợp để xác định được vị trí của nó;
có trường hợp việc vẽ các ranh giới ngoài hay các đường hoạch định ranh giới đó
có thể thay thế bằng các bản kê các tọa độ địa lý các điểm, có ghi rõ hệ thống
trắc địa được sử dụng.
3. Quốc gia ven biển công bố theo đúng thủ tục các bản đồ hay bản kê các
tọa độ đại lý gửi đến Tổng thư ký Liên hợp quốc một bản để lưu chiểu.
PHẦN VI
THỀM LỤC ĐỊA
ĐIỀU 76. Định nghĩa thềm lục địa
1. Thềm lục địa của một quốc gia ven biển bao gồm đáy biển và lòng đất dưới
đáy biển bên ngoài lãnh hải của quốc gia đó, trên toàn bộ phần kéo dài tự nhiên
của lãnh thổ đất liền của quốc gia đó cho đến bờ ngoài của rìa lục địa, hoặc
đến cách đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải 200 hải lý, khi bờ ngoài
của rìa lục địa của quốc gia đó ờ khoảng cách gần hơn.
2. Thềm lục địa không mở rộng ra ngoài các giới hạn nói ở các khoản từ 4
đến 6.
3. Rìa lục địa là phần kéo dài ngập dưới nước của lục địa của quốc gia ven
biển, cấu thành bởi đáy biển tương ứng với thềm, dốc và bờ, cũng như lòng đất
dưới đáy của chúng. Rìa lục địa không bao gồm các đáy của đại dương ở độ sâu
lớn, với các dải núi đại dương của chúng, cũng không bao gồm lòng đất dưới đáy
của chúng.
4. a) Theo công ước, quốc gia ven biển xác định bờ ngoài của rìa lục địa mở
rộng ra quá 200 hải lý các đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải bằng:
i. Một đường vạch theo đúng khoản 7, bằng cách nối các điểm cố định tận
cùng nào mà bề dày lớp đá trầm tích ít nhất cũng bằng một phần trăm khoảng cách
từ điểm được xét cho tới chân dốc lục địa hay,
ii. Một đường vạch theo đúng khoản 7, bằng cách nối các điểm cố định ở cách
chân dốc lục địa nhiều nhất là 60 hải lý;
b) Nếu không có bằng chứng ngược lại, chân dốc lục địa trùng hợp với điểm
biến đồi độ dốc rõ nét nhất ở nền dốc
5. Các điểm cố định xác định trên đáy biển, đường ranh giới ngoài cùng của
thềm lục địa được vạch theo đúng khoản 4, điểm a), điểm nhỏ i) và ii), nằm cách
điểm cơ sở để tính chiều rộng lãnh hải một khoảng cách không vượt quá 350 hải
lý hoặc nằm cách đường đẳng sâu 2500m là đường nối liền các điểm có chiều sâu
2500m, một khoảng cách không quá 100 hải lý.
6. Mặc dù đã có khoản 5, một dải núi ngầm, ranh giới ngoài của thềm lục địa
không vượt quá một đường vạch ra ở cách đường cơ sở dùng để tính chiều rộng
lãnh hải 350 hải lý. Khoản này không áp dụng cho các địa hình nhô cao dưới mặt
nước tạo thành các yếu tố tự nhiên của rìa lục địa, như các thềm, ghềnh, sông
núi, bãi hoặc mỏm.
7. Quốc gia ven biển ấn định ranh giới ngoài thềm lục địa của mình, khi
thềm này mở rộng ra quá 200 hải lý kể từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng
lãnh hải, bằng cách nối liền các điểm cố định xác định bằng hệ tọa độ kinh vĩ
độ, thành các đoạn thẳng dài không quá 60 hải lý.
8. Quốc gia ven biển thông báo những thông tin về ranh giới các thềm lục
địa của mình, khi thềm này mở rộng quá 200 hải lý kể từ đường cơ sở dùng để
tính chiều rộng lãnh hải, cho ủy ban ranh giới thềm lục địa được thành lập theo
Phụ lục II, trên cơ sở sự đại diện công bằng về địa lý. Ủy ban gửi cho các quốc
gia ven biển những kiến nghị về các vấn đề liên quan đến việc ấn định ranh giới
ngoài thềm lục địa của họ. Các ranh giới do một quốc gia ven biển ấn định trên
cơ sở các kiến nghị đó là dứt khoát và có tính chất bắt buộc.
9. Quốc gia ven biển gửi cho Tổng thư ký Liên hợp quốc các bản đồ và các
điều chỉ dẫn thích đáng, kể cả các dữ kiện trắc địa, chỉ rõ một cách thường
xuyên ranh giới ngoài của thềm lục địa của mình. Tổng thư ký công bố các tài
liệu này theo đúng thủ tục.
10. Điều này không xét đoán trước vấn đề hoạch định ranh giới thềm lục địa
giữa các quốc gia có bờ biển tiếp liền hoặc đối diện nhau.
ĐIỀU 77. Các quyền của các quốc gia ven biển đối với thềm
lục địa
1. Quốc gia ven biển thực hiện các quyền thuộc chủ quyền đối với thềm lục
địa về mặt thăm dò và khai thác tài nguyên thiên nhiên của mình.
2. Các quyền nói ở khoản 1 có tính chất đặc quyền, nghĩa là các quốc gia
ven biển không thăm dò thềm lục địa hay không khai thác tài nguyên thiên nhiên
của thềm lục địa, thì không ai có quyền tiến hành các hoạt động như vậy, nếu
không có sự thỏa thuận rõ ràng của quốc gia đó.
3. Các quyền của quốc gia ven biển đối với thềm lục địa không phụ thuộc vào
sự chiếm hữu thực sự hay danh nghĩa, cũng như vào bất cứ tuyên bố rõ ràng nào.
4. Các tài nguyên thiên nhiên ở phần này bao gồm các tài nguyên thiên nhiên
khoáng sản và các tài nguyên thiên nhiên không sinh vật khác của đáy biển và
lòng đất dưới đáy biển, cũng như các sinh vật thuộc loại định cư, nghĩa là
những sinh vật nào, ở thời kỳ có thể đánh bắt được, hoặc nằm bất động ở đáy,
hoặc lòng đất dưới đáy; hoặc là không có khả năng di chuyển nếu không có khả
năng tiếp xúc với đáy hay lòng đáy dưới đáy biển.
ĐIỀU 78. Chế độ pháp lý của vùng nước và vùng trời ở phía
trên, và các quyền và các tự do của các quốc gia khác
1. Các quyền của quốc gia ven biển đối với thềm lục địa không đụng chạm đến
chế độ pháp lý của vùng nước ở phía trên hay của vùng trời trên vùng nước này.
2. Việc quốc gia ven biển thực hiện các quyền của mình đối với thềm lục địa
không gây thiệt hại đến hàng hải hay các quyền và các tự do khác của các nước
khác đã được công ước thừa nhận, cũng không được cản trở việc thực hiện các
quyền này một cách không thể biện bạch được.
ĐIỀU 79. Các dây cáp và ống dẫn ngầm ở thềm lục địa
1. Tất cả các quốc gia có quyền đặt các dây cáp và ống dẫn ngầm ở thềm lục
địa theo đúng điều này.
2. Trong điều kiện thi hành các biện pháp hợp lý nhằm thăm dò thềm lục địa,
khai thác tài nguyên thiên nhiên ở thềm lục địa và ngăn chặn, hạn chế và chế
ngự ô nhiễm do ống dẫn gây ra, quốc gia ven biển không được cản trở việc lắp
đặt hay bảo quản các ống dẫn và dây cáp đó.
3. Tuyến ống dẫn đặt ở thềm lục địa cần được sự thỏa thuận của quốc gia ven
biển.
4. Không một quy định nào ở phần này đụng chạm đến quyền của quốc gia ven
biển đặt ra các điều kiện đối với các đường dây cáp hay các đường ống dẫn đi
vào lãnh thổ hay lãnh hải của mình, cũng như, không đụng chạm đến đường tài
phán của quốc gia này đối với dây và ống dẫn được đặt, hoặc sử dụng trong khuôn
khổ của việc thăm dò thềm lục địa của mình hay việc khai khác tài nguyên thiên
nhiên của mình, hoặc của việc khai thác các đảo nhân tạo, thiết bị hay công trình
thuộc quyền tài phán của quốc gia này.
5. Khi đặt các dây cáp và ống dẫn ngầm, các quốc gia phải tính đến các dây
cáp và ống ngầm đã được đặt trước. Đặc biệt họ cần lưu ý không làm hại đến khả
năng sửa chữa các đường dây cáp và ống dẫn đó.
ĐIỀU 80. Các đảo nhân tạo, thiết bị và công trình ở thềm
lục địa
Điều 60 áp dụng mutatis mutandis (với những sửa đổi cần thiết và chi tiết)
đối với các đảo nhân tạo, thiết bị và công trình ở thềm lục địa.
ĐIỀU 81. Việc khoan ở thềm lục địa
Quốc gia ven biển có đặc quyền cho phép và quy định việc khoan ở thềm lục
địa bất kỳ vào mục đích gì.
ĐIỀU 82. Những khoản đóng góp bằng tiền hoặc hiện vật vào
việc khai thác thềm lục địa ngoài 200 hải lý
1. Quốc gia ven biển nộp các khoản đóng góp bằng tiền hay bằng hiện vật về
việc khai thác tài nguyên thiên nhiên không sinh vật của thềm lục địa nằm ngoài
200 hải lý kể từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải.
2. Các khoản đóng góp được nộp hàng năm tính theo toàn bộ sản phẩm thu
hoạch được ở một điểm khai thác nào đó, sau năm năm đầu khai thác điểm đó. Năm
thứ 6 tỉ lệ đóng góp là 1% của giá trị hay của khối lượng sản phẩm khai thác
được ở điểm khai thác. Sau đó, mỗi năm tỷ lệ này tăng lên 1% cho đến năm thứ 12
và bắt đầu từ năm thứ 12 trở đi tỷ lệ đó ở mức 7%. Sản phẩm không bao gồm các
tài nguyên được dùng trong khuôn khổ của việc khai thác.
3. Quốc gia đang phát triển nào là nước chuyên nhập khẩu một khoáng sản
được khai thác từ thềm lục địa của mình được miễn các khoản đóng góp đối với
loại khoáng sản đó.
4. Các khoản đóng góp này được thực hiện thông qua Cơ quan quyền lực; cơ
quan này phân chia các khoản đó cho các quốc gia thành viên, theo tiêu chuẩn
phân chia công bằng có tình đến lợi ích và nhu cầu của các quốc gia đang phát
triển, đặc biệt là các quốc gia chậm phát triển nhất hay các quốc gia không có
biển.
ĐIỀU 38. Hoạch định ranh giới thềm lục địa giữa các quốc
gia có bờ biển tiếp liền hay đối diện nhau
1. Việc hoạch định ranh giới thềm lục địa giữa các quốc gia có bờ biển tiếp
liền hay đối diện nhau được thực hiện bằng con đường thỏa thuận theo đúng luật
pháp quốc tế như đã được nêu ở Điều 38 của Quy chế tòa án quốc tế, để đi tới
một giải pháp công bằng.
2. Nếu không đi tới một thỏa thuận trong một thời hạn hợp lý thì các quốc
gia hữu quan sử dụng các thủ tục nêu ở phần XV.
3. Trong khi chờ đợi ký kết thỏa thuận nói ở khoản 1, các quốc gia hữu quan
trên tinh thần hiều biết, và hợp tác, làm hết sức mình để đi đến các giải pháp
tạm thời có tính chất thực tiễn và để không phương hại hay cản trở việc ký kết các
thỏa thuận dứt khoát trong giai đoạn quá độ này. Các dàn xếp tạm thời không
phương hại đến việc hoạch định cuối cùng.
4. Khi một điều ước đang có hiệu lực giữa các quốc gia hữu quan, các vấn đề
liên quan đến việc hoạch định ranh giới thềm lục địa được thực hiện theo đúng
điều ước đó.
ĐIỀU 84. Các hải đồ và bản kê các tọa độ địa lý
1. Với điều kiện tuân thủ phần này, các ranh giới ngoài của thềm lục địa và
các đường hoạch định ranh giới được vạch ra theo đúng Điều 83 được ghi rõ lên
các hải đồ có tỷ lệ thích hợp để xác định được vị trí của nó, có trường hợp
việc vẽ ranh giới ngoài hay các đường hoạch đinh ranh giới này có thể được thay
thế bằng các bản kê các tọa độ địa lý các điểm, có ghi rõ hệ thống trắc địa
được sử dụng.
2. Quốc gia ven biển công bố theo đúng thủ tục các bản đồ hay các bản kê
các tọa độ địa lý và gửi đến Tổng thư ký liên hợp quốc một bản để lưu chiểu, và
đối với các bản đồ hay các bản kê các tọa độ địa lý vị trí của ranh giới ngoài
của thềm lục địa, thì gửi đến Tổng thư ký của Cơ quan quyền lực một bản để lưu
chiểu.
ĐIỀU 85. Việc đào đường hầm
Phần này không đụng chạm đến quyền của quốc gia ven biển được khai thác
lòng đất dưới đáy biển bằng cách đào hầm, bất kể độ sâu của các vùng nước ở nơi
ấy là bao nhiêu.
PHẦN VII. BIỂN CẢ
Mục 1
CÁC QUY ĐỊNH CHUNG
ĐIỀU 86. Phạm vi áp dụng của phần này
Phần này áp dụng cho tất cả những vùng biển không nằm trong vùng đặc quyền
về kinh tế, lãnh hải hay nội thủy của một quốc gia cũng như không nằm trong
vùng nước quần đảo của một quốc gia quần đảo. Điều này không hạn chế về bất cứ
phương diện nào các quyền tự do mà tất cả các quốc gia được hưởng trong vùng
đặc quyền về kinh tế theo Điều 58.
ĐIỀU 87. Tự do trên biển cả
1. Biển cả được để ngỏ cho tất cả các quốc gia, dù có
biển hay không có biển. Quyền tự do trên biển cả được thực hiện trong những
điều kiện do các quy định của Công ước hay và những quy tắc khác của pháp luật
quốc tế trù định. Đối với các quốc gia dù có biển hay không có biển, quyền tự
do này đặc biệt bao gồm:
a) Tự do hàng hải;
b) Tự do hàng không;
c) Tự do đặt các dây cáp hoặc ống dẫn ngầm với điều
kiện tuân thủ Phần VI;
d) Tự do xây dựng các đảo nhân tạo hoặc các thiết bị
khác được pháp luật quốc tế cho phép, với điều kiện tuân thủ phần VI;
e) Tự do đánh bắt hải sản trong các điều đã được nêu ở
Mục 2;
f) Tự do nghiên cứu khoa học với các điều kiện tuân
thủ các Phần VI và VIII.
2. Mỗi quốc gia khi thực hiện các quyền tự do này phải
tính đến lợi ích của việc thực hiện tự do trên biển cả của các quốc gia khác,
cũng như đến các quyền được Công ước thừa nhận liên quân đến các hoạt động
trong Vùng.
ĐIỀU 88. Sử dụng biển cả vào mục đích hòa bình
Biển cả được sử dụng vào các mục đích hòa bình
ĐIỀU 89. Tính bất hợp pháp của những yêu sách về chủ
quyền đối với biển cả
Không một quốc gia nào có thể đòi đặt một cách hợp
pháp một bộ phận nào đó của biển cả thuộc vào chủ quyền của mình
ĐIỀU 90. Quyền hàng hải
1. Mỗi quốc gia quy định các điều kiện cho phép tàu
thuyền mang quốc tịch của nước mình, các điều kiện đăng ký các tàu thuyền trên
lãnh thổ của mình và các điều kiện cần phải có để cho tàu thuyền được quyền
treo cờ của nước mình. Các tàu thuyền mang quốc tính của quốc gia mà chúng được
phép treo cờ. Cần phải có một mối quan hệ thực chất giữa quốc gia và các con
tàu.
2. Quốc gia nào cho phép tàu thuyền treo cờ nước mình
thì cấp cho tàu thuyền đó các tài liệu có liên quan đến mục đích đó.
ĐIỀU 92. Điều kiện pháp lý của tàu thuyền
1. Các tàu thuyền chỉ hoạt động dưới cờ của một quốc
gia và, trừ những trường hợp ngoại lệ đã được quy định rõ ràng trong các hiệp
ước quốc tế hay trong Công ước, chỉ thuộc quyền tài phán của quốc gia này khi ở
biển cả. Không được thay đổi cờ trong một chuyến đi hay trong một dịp đậu lại,
trừ trường hợp có sự chuyển giao thật sự quyền sở hữu hay có thay đổi đăng ký.
2. Một tàu thuyền hoạt động dưới cờ của nhiều quốc gia
mà nó sử dụng theo sở thích của mình thì không thể sử dụng đối với mọi quốc gia
thứ ba, bất cứ quốc tịch nào trong số đó và có thể được coi như là một tàu
thuyền không có quốc tịch.
ĐIỀU 93. Các tàu thuyền treo cờ của Tổ chức Liên hợp
quốc, của cơ quan chuyên môn của Liên hợp quốc hay của Cơ quan năng lượng
nguyên tử quốc tế
Các điều trên không đề cập vấn đề các tàu được dùng
vào dịch vụ chính thức của Liên hợp quốc, của các cơ quan chuyên môn của Liên
hợp quốc hay Cơ quan năng lượng nguyên tử quốc tế.
ĐIỀU 94. Các nghĩa vụ của quốc gia mà tàu thuyền mang
cờ
1. Mọi quốc gia đều thực sự thi hành quyền tài phán và
sự kiểm soát của mình trong các lĩnh vực hành chính, kỹ thuật và xã hội đối với
các tàu thuyền mang cờ của mình.
2. Đặc biệt mọi quốc gia:
a) Có một sổ đăng ký hàng hải có ghi tên và đặc điểm
của các tàu thuyền mang cờ nước mình, trừ các tàu thuyền do kích thước nhỏ
không nằm trong quy định quốc tế được chấp nhận chung;
b) Thi hành quyền tài phán theo đúng luật trong nước
mình đối với bất kỳ tàu thuyền nào mang cờ nước mình, cũng như đối với thuyền
trưởng, sĩ quan và đoàn thủy thủ về các vấn đề hành chính, kỹ thuật và xã hội
liên quan đến tàu thuyền.
3. Mọi quốc gia phải có các biện pháp cần thiết đối
với các tàu thuyền mang cờ của nước mình để đảm bảo an toàn trên biển, nhất là
về:
a) Cấu trúc, trang bị của tàu thuyền và khả năng đi
biển của nó;
b) Thành phần, điều kiện làm việc và việc đào tạo các
thủy thủ, có tính đến các văn bản quốc tế có thể áp dụng được;
c) Việc sử dụng các tín hiệu, tình trạng hoạt động tốt
của hệ thống thông tin liên lạc và việc phòng ngừa đâm va.
4. Các biện pháp này bao gồm các biện pháp cần thiết
để đảm bảo rằng:
a) Tàu thuyền nào cũng phải được một viên thanh tra
hàng hải có trình độ kiểm tra trước khi đăng ký vào sổ và sau đó, trong những
khoảng thời gian thích hợp và trên tàu thuyền cần có các hải đồ, các tài liệu
về hàng hải, cũng như dụng cụ và máy móc hàng hải mà sự an toàn hàng hải đòi
hỏi;
b) Tàu thuyền nào cũng phải được giao cho một thuyền
trưởng và các sĩ quan có trình độ chuyên môn cần thiết, đặc biệt là việc điều
động, hàng hải, thông tin liên lạc và điều khiển các máy, thủy thủ có trình độ
chuyên môn cần thiết và đủ số so với loại tàu thuyền, kích thước, máy móc và
trang bị của tàu thuyền;
c) Thuyền trưởng, các sỹ quan và ở mức độ cần thiết,
đoàn thủy thủ hoàn toàn nắm vững và sẵn sàng tôn trọng các quy tắc quốc tế có
thể áp dụng được về việc cứu sinh trên biển, việc phòng ngừa các tai nạn đâm
va, việc ngăn ngừa hạn chế và chế ngự ô nhiễm môi trường biển và việc duy trì
thông tin liên lạc bằng vô tuyến điện
5. Khi thi hành các biện pháp nói ở các khoản 3 và 4,
mỗi quốc gia buộc phải tuân thủ các quy tắc, thủ tục và tập quán quốc tế đã được
chấp nhận chung và thi hành mọi biện pháp cần thiết để đảm bảo cho các quy tắc,
thủ tục và tập quán nói trên được tôn trọng.
6. Quốc gia nào có những lý do đúng đắn để nghĩ rằng
quyền tài phán và quyền kiểm soát thích hợp đối với một tàu thuyền đã không
được thi hành, thì có thề thông báo những sự kiện đó cho quốc gia mà tàu mang
cờ. Khi được thông báo, quốc gia mà tàu mang cờ phải tiến hành điều tra và nếu
cần, có các biện pháp điều chỉnh cần thiết.
7. Mỗi quốc gia ra lệnh mở cuộc điều tra do một hay
nhiều nhân vật có đầy đủ thẩm quyền tiến hành, hoặc là cuộc điều tra được tiến
hành trước những nhân vật đó về bất cứ tai nạn nào trên biển hay sự cố hàng hải
nào xảy ra trên biển cả có liên quan đến một chiếc tàu mang cờ của nước mình và
đã gây ra chết người hay gây trọng thương cho những công dân của một quốc gia
khác, hoặc đã gây ra những thiệt hại nghiêm trọng cho tàu thuyền và công trình
thiết bị của một quốc gia khác hay cho môi trường biển. Quốc gia mà tàu mang cờ
và quốc gia hữu quan đó tổ chức về một tai nạn trên biển hay một sự cố hàng hải
thuộc loại này.
ĐIỀU 95. Quyền miễn trừ của các tàu chiến trên biển cả
Các tàu chiến trên biển cả được hưởng quyền miễn trừ
hoàn toàn về tài phán của bất kỳ quốc gia nào khác ngoài quốc gia mà tàu mang
cờ.
ĐIỀU 96. Quyền miễn trừ của các tàu thuyền chỉ dùng
cho một cơ quan Nhà nước không có tính chất thương mại
Các tàu thuyền của Nhà nước hay do Nhà nước khai thác
và chỉ dùng cho một cơ quan Nhà nước không có tính chất thương mại trên biển cả
được hưởng quyền miễn trừ hoàn toàn về tài phán của bất kỳ quốc gia nào khác
ngoài quốc gia mà tàu mang cờ.
ĐIỀU 97. Quyền tài phán hình sự về tai nạn đâm va hoặc
bất cứ sự cố hàng hải nào
1. Trong trường hợp xảy ra tai nạn đâm va hay bất kỳ
sự cố hàng hải nào trên biển cả mà trách nhiệm hình sự hay trách nhiệm kỷ luật
thuộc về thuyền trưởng hoặc thuộc về bất kỳ thành viên nào trong đoàn thủy thủ
của con tàu, chỉ có thể yêu cầu truy tố hình sự hay thi hành kỷ luật họ trước
các nhà đương cục tư pháp hay hành chính của quốc gia mà tàu mang cờ hoặc là
của quốc gia mà đương sự mang quốc tịch.
2. Về mặt kỷ luật, quốc gia nào đã cấp bằng chỉ huy
hay giấy chứng nhận khả năng hoặc giấy phép, là quốc gia duy nhất có thẩm quyền
công bố, với việc tôn trọng các thủ tục họp pháp, thu hồi các bằng hay chứng
chỉ đó không thuộc quốc tịch của quốc gia đó.
3. Không thể ra lệnh bắt hay giữ chiếc tàu, ngay cả
trong khi tiến hành công việc dự thẩm, nếu không phải là nhà đương cục của quốc
gia mà tàu mang cờ.
ĐIỀU 98. Nghĩa vụ giúp đỡ
1. Mọi quốc gia đòi hỏi thuyền trưởng của một chiếc
tàu mang cờ của nước mình, trong chừng mực có thể làm được mà không gây nguy
hiểm nghiêm trọng cho con tàu, cho đoàn thủy thủ hay cho hành khách trên tàu,
phải:
a) Giúp đỡ bất kỳ ai đang gặp nguy khốn trên biển;
b) Hết sức nhanh chóng đến cứu những người đang bị
nguy cấp nếu như được thông báo những người này cần được giúp đỡ, trong chừng
mực mà người ta có thể chờ đợi một cách hợp lý là thuyền trưởng phải xử lý như
thế;
c) Trong trường hợp xảy ra tai nạn đâm va, giúp đỡ
chiếc tàu kia, đoàn thủy thủ và hành khách của nó và, trong phạm vi có thể, cho
chiếc tàu đó biết tên và cảng đăng ký của tàu mình, và cảng gần nhất mà tàu
mình sẽ cập bến.
2. Tất cả các quốc gia ven biển tạo điều kiện dễ dàng
cho việc thành lập và hoạt động của một cơ quan thường trực về tìm kiếm và cứu
trợ thích hợp và hiệu quả, để đảm bảo an toàn hàng hải và hàng không, và nếu có
thể, thì hợp tác với những nước láng giềng của mình trong khuôn khổ của những
dàn xếp có tính chất khu vực, để thực hiện mục đích nói trên.
ĐIỀU 99. Cấm chuyên chở nô lệ
Mọi quốc gia đều thi hành các biện pháp có hiệu quả để
ngăn ngừa và trừng trị việc chuyên chở nô lệ trên các tàu được phép mang cờ của
nước mình, và để ngăn ngừa việc lạm dụng sắc cờ của mình vào mục đích nói trên.
Mọi người nô lệ ẩn náu ở trên một chiếc tàu, dù con tàu này mang cờ của bất kỳ
quốc gia nào, cũng được tự do ipso-facto (ngay tức khắc).
ĐIỀU 100. Nghĩa vụ hợp tác để trấn áp nạn cưới biển
Tất cả các quốc gia hợp tác với nhau, bằng mọi khả
năng của mình, để trấn áp cướp biển trên biển cả hay ở bất kỳ nơi nào khác
không thuộc quyền tài phán của quốc gia nào.
ĐIỀU 101. Định nghĩa cướp biển
Một trong những hành động sau đây là hành động cướp
biển:
a) Mọi hành động trái phép dùng hành động hay bắt giữ
hoặc bất kỳ sự cướp phá nào do thủy thủ hoặc hành khách trên một chiếc tàu hay
một phương tiện bay tư nhân gây nên, vì những mục đích riêng tư, và nhằm:
i. Chống lại một chiếc tàu hay một phương tiện bay
khác, hay chống lại những người hay của cải ở trên con tàu hoặc phương tiện bay
đỗ ở biển cả;
ii. Chống lại một chiếc tàu hay một phương tiện bay,
người hay của cải, ở một nơi không thuộc quyền tài phán của một quốc gia nào;
b) Mọi hành động tham gia có tính chất tự nguyện vào
việc sử dụng một chiếc tàu hay một phương tiện bay, khi người tham gia biết từ
những sự việc rằng chiếc tàu hay phương tiện bay đó là một tàu hay phương tiện
bay cướp biển;
c) Mọi hành động nhằm xúi giục người khác phạm những
hành động được xác định ở điểm a hoặc b hay phạm phải với chủ định làm dễ dàng
cho các hành động đó.
ĐIỀU 102. Hành động cướp biển của một tàu chiến, một
tàu Nhà nước hay một phương tiện bay của Nhà nước mà đoàn thủy thủ hay đội bay
đã nổi loạn gây ra
Những hành động cướp biển, như đã được xác định ở Điều
101, của một tàu chiến hay một tàu Nhà nước hay một phương tiện bay của Nhà
nước bị đoàn thủy thủ hay đội bay nổi loạn làm chủ, được coi là hành động của
các tàu hay phương tiện bay tư nhân.
ĐIỀU 103. Định nghĩa một tàu hay một phương tiện bay
cướp biển
Những tàu hay phương tiện bay mà kể kiểm soát nó thực
sự, chủ trương sử dụng để phạm một trong những hành động được nêu ở Điều 101,
được coi là những tàu hay phương tiện bay cướp biển. Những chiếc tàu hay phương
tiện bay đã được dùng để phạm những hành động nói trên cũng được coi là tàu hay
phương tiện bay cướp biển chừng nào nó còn ở dưới quyền kiểm soát của những
người gây ra những hành động đó.
ĐIỀU 104. Giữ hay mất quốc tịch của một con tàu hay
một phương tiện bay cướp biển
Một con tàu hay một phương tiện bay đã trở thành cướp
biển có thể giữ quốc tịch của mình. Việc giữ hay mất quốc tịch do luật trong
nước của quốc gia đã trao quốc tịch đó điều chỉnh.
ĐIỀU 105. Bắt giữ một chiếc tàu hay phương tiện bay
cướp biển
Mọi quốc gia ở biển cả, hay ở bất cứ nơi nào khác
không thuộc quyền tài phán của bất kỳ quốc gia nào, đều có thể bất giữ một
chiếc tàu hay một phương tiện bay đã trở thành cướp biển, hoặc một chiếc tàu
hay một phương tiện bay bị chiếm đoạt sau một hành động cướp biển và đang nằm
trong tay bọn cướp biển, và đều có thể bắt giữ người và của cải ở trên con tàu
hay phương tiện bay đó. Các tòa án của quốc gia đã tiến hành việc bắt đó có thể
công bố các hình phạt cũng như các biện pháp áp dụng đối với chiếc tàu, phương
tiện bay hay của cải, trừ những người lương thiện trong cuộc.
ĐIỀU 106. Trách nhiệm trong trường hợp bắt giữ một
cách độc đoán
Khi bắt giữ một chiếc tàu hay một phương tiện bay bị
tình nghi là cướp biển mà không có lý do đầy đủ, quốc gia nào đã tiến hành việc
bắt giữ đó phải chịu trách nhiệm về bất kỳ tổn thất hay thiệt hại nào do hành
động đó gây ra đối với quốc gia mà tàu mà phương tiện bay đó mang quốc tịch.
ĐIỀU 107. Các tàu và phương tiện bay có đủ tư cách để
thực hiện việc bắt giữ vì lý do cướp biển
Chỉ có các tàu chiến hay phương tiện bay quân sự, hoặc
các tàu thuyền hay phương tiện bay khác mang các dấu hiện bên ngoài chứng tỏ rõ
ràng là của một cơ quan Nhà nước và được tiến hành nhiệm vụ này, mới có thể
thực hiện việc bắt giữ vì lý do cướp biển.
ĐIỀU 108. Buôn bán trái phép các chất ma túy và các
chất kích thích
1. Tất cả các quốc gia hợp tác với nhau để trấn áp
việc buôn bán trái phép các chất ma túy và các chất kích thích do các tàu đi
lại ở biển cả tiến hành, vi phạm các công ước quốc tế.
2. Mọi quốc gia khi đã có lý do chính đáng để cho rằng
một tàu mang cờ của nước mình đang buôn bán trái phép các chất ma túy và các
chất kích thích đều có thể yêu cầu các quốc gia khác hợp tác để chấm dứt việc
buôn bán đó.
ĐIỀU 109. Phát sóng không được phép từ biển cả
1. Tất cả các quốc gia hợp tác với nhau để trấn áp
phát sóng không được phép từ biển cả.
2. Trong Công ước “phát sóng không được phép” là các
cuộc phát thanh và vô tuyến truyền hình nhằm vào quảng đại quần chúng từ một
chiếc tàu hay một thiết bị ở biển cả vi phạm các quy chế quốc tế, trừ việc phát
các tín hiệu cấp cứu.
3. Người nào tiến hành truyền các cuộc phát sóng không
được phép đều có thể bị truy tố trước tòa án của:
a) Quốc gia mà chiếc tàu phát sóng mang cờ;
b) Quốc gia đăng ký của thiết bị;
c) Quốc gia mà người nói trên là công dân;
d) Mọi quốc gia mà ở đó các cuộc phát sóng có thể thu
được;
e) Mọi quốc gia có các đài thông tin vô tuyến được
phép đã bị nhiễu do các cuộc phát sóng đó.
4. Ở biển cả, một quốc gia có quyền tài phán ở theo
đúng khoản 3, có thể theo đúng Điều 110, bắt bất kỳ người nào hay giữ bất kỳ
chiếc tàu nào truyền các cuộc phát sóng không được phép và tịch thu phương tiện
phát sóng.
ĐIỀU 110. Quyền khám xét
1. Trừ những trường hợp mà việc can thiệp là căn cứ
vào những quyền do hiệp ước mang lại, một tàu chiến khi gặp một tàu nước ngoài
ở trên biển cả không phải là một tàu được hưởng quyền miễn trừ như đã nêu ở các
Điều 95 và 96, chỉ có thể khám xét chiếc tàu đó nếu có những lý do đúng đắn để
nghi ngờ chiếc tàu đó:
a) Tiến hành cướp
biển;
b) Chuyên chở nô
lệ;
c) Dùng vào các
cuộc phát sóng không được phép, quốc gia mà chiếc tàu mang cờ có quyền tài phán
theo Điều 109;
d) Không có quốc
tịch; hay
e) Thật ra là cùng
quốc tịch với chiếc tàu chiến, mặc dù chiếc tàu này treo cờ nước ngoài hay từ
chối treo cờ của mình.
2. Trong những
trường hợp nêu ở khoản 1, tàu chiến có thể kiểm tra các giấy tờ cho phép mang
cờ. Vì mục đích này, tàu chiến có thể phái một chiếc xuồng, dưới sự chỉ huy của
một sĩ quan, đến gần chiếc tàu bị tình nghi. Sau khi kiểm tra các tài liệu, nếu
vẫn còn nghi vấn thì có thể tiếp tục điều tra trên tàu với một thái độ hết sức
đúng mực.
3. Nếu việc nghi
ngờ xét ra không có cơ sở thì chiếc tàu bị khám xét được bồi thường về mọi tổn
thất hay thiệt hại xảy ra, với điều kiện là chiếc tàu này không phạm một hành
động nào làm cho nó bị tình nghi.
4. Các điều quy
định này được áp dụng mutatis mutandis (với những sửa đổi cần thiết về chi
tiết) đối với các phương tiện bay quân sự.
5. Các điều quy
định này cũng được áp dụng đối với tất cả các tàu thuyền hay phương tiện bay
khác đã được phép một cách hợp lệ và mang những dấu hiệu bên ngoài chỉ rõ rằng
chúng được sử dụng cho một cơ quan Nhà nước.
ĐIỀU 111. Quyền
truy đuổi
1. Việc truy đuổi
một tàu nước ngoài có thể được tiến hành nếu những nhà đương cục có thẩm quyền
của quốc gia ven biển có những lý do đúng đắn để cho rằng chiếc tàu này đã vi
phạm các luật và quy định của quốc gia đó. Việc truy đuổi phải bắt đầu khi
chiếc tàu nước ngoài hay một trong những chiếc xuồng của nó đang ở trong nội
thủy, trong vùng nước quần đảo, trong lãnh hải hay trong vùng tiếp giáp của
quốc gia truy đuổi, và chỉ có thể được tiếp tục ở ngoài ranh giới của lãnh hải
hay vùng tiếp giáp với điều kiện là việc truy đuổi này không bị gián đoạn.
Không nhất thiết là chiếc tàu ra lệnh cho tàu nước ngoài đang đi trong lãnh hải
hay trong vùng tiếp giáp dừng lại cũng phải có mặt tại các vùng biển ấy khi mà
chiếc tàu nước ngoài này nhận được lệnh. Nếu chiếc tàu nước ngoài ở trong vùng
tiếp giáp, được quy định ở Điều 33, việc truy đuổi chỉ có thể bắt đầu nếu tàu
đó đã vi phạm các quyền, mà việc thiết lập vùng tiếp giáp có nhiệm vụ bảo vệ.
2. Quyền truy đuổi
được áp dụng matatis mutandis (với những sửa đổi cần thiết về chi tiết) đối với
những hành động vi phạm các luật và quy định của quốc gia ven biển có thể áp
dụng, theo đúng Công ước, cho vùng đặc quyền kinh tế hay thềm lục địa, kể cả
các vùng an toàn bao quanh các thiết bị ở thềm lục địa, nếu các vi phạm này đã
xảy ra trong các vùng nói trên.
3. Quyền truy đuổi
chấm dứt khi chiếc tàu bị truy đuổi đi vào lãnh hải của quốc gia mà nó thuộc
quyền hay của một quốc gia khác.
4. Việc truy đuổi
chi được coi như bắt đầu, nếu chiếc tàu truy đuổi bằng các phương tiện có thể
sử dụng được mà mình có, biết một cách chắc chắn là chiếc tàu bị đuổi, hay một
những trong chiếc xuồng của nó hoặc các phương tiện đi biển khác hoạt động
thành tốp và dùng chiếc tàu bị truy đuổi làm chiếc tàu mẹ, đang ở bên trong
ranh giới của lãnh hải, hay tùy theo trường hợp đang ở trong vùng tiếp giáp,
vùng đặc quyền kinh tế hay ở trên thềm lục địa. Việc truy đuổi chỉ có thể bắt
đầu sau khi đã phát tín hiệu nhìn hoặc nghe bắt nó dừng lại, ở một cự ly cần
thiết để chiếc tàu nói trên nhận biết được.
5. Quyền truy đuổi
chỉ có thể được thực hiện bởi các tàu chiến hay các phương tiện quân sự hoặc
các tàu hay phương tiện bay khác có mang các dấu hiện ở bên ngoài chỉ rõ rang
rằng, các tàu hay phương tiện bay đó được sử dụng cho một cơ quan Nhà nước và
được phép làm nhiệm vụ này.
6. Trong trường
hợp mà chiếc tàu bị một phương tiện bay truy đuổi:
a) Các khoản 1 đến
4 được áp dụng mutatis mutandis (với những thay đổi cần thiết và chi tiết);
b) Phương tiện bay
nào phát lệnh dừng lại phải tự mình truy đuổi chiếc tàu cho đến lúc một chiếc
tàu hay phương tiện bay khác của quốc gia ven biển; sau khi được phương tiện
bay nói trên thông báo, đã đến những vị trí để tiếp tục cuộc truy đuổi nếu như
phương tiện đầu tiên không thể tự mình giữ được chiếc tàu. Để chứng minh cho
việc bắt một chiếc tàu dừng lại ở ngoài lãnh hải là đúng, thì riêng việc phát
hiện chiếc tàu này đã vi phạm hay bị nghi ngờ là vị phạm là chưa đủ, mà còn
phải xác định đồng thời xem nó có bị phương tiện bay hay tàu khác yêu cầu dừng
lại và việc truy đuổi này phải không hề bị gián đoạn.
7. Không thể đòi
hủy lệnh giữ một chiếc tàu bị bắt ở địa điểm thuộc quyền tài phán của một quốc
gia và bị dẫn độ về một cảng của quốc gia này để cho các nhà đương cục có thẩm
quền tiến hành điều tra với lý do duy nhất là vì hoàn cảnh bắt buộc chiếc tàu
đó đã đi có hộ tống qua một phần của vùng đặc quyền về kinh tế hay của biển cả.
8. Một chiếc tàu
đã bị bắt dừng lại hay bị bắt ở ngoài lãnh hải trong những hoàn cảnh không
chứng minh được cho việc sử dụng quyền truy đuổi thì được bồi thường về mọi tổn
thất hay tổn hại nếu có.
ĐIỀU 112. Quyền
đặt các dây cáp hay ống dẫn ngầm
1. Mọi quốc gia có
quyền đặt các dây cáp hay ống dẫn ngầm ở đáy biển cả bên ngoài thềm lục địa.
2. Điều 79, khoản
5, được áp dụng đối với đường dây cáp và ống dẫn ngầm này.
ĐIỀU 113. Về
việc một dây cáp hay một ống dẫn ngầm bị đứt đoạn hay bị hư hỏng
Mọi quốc ra đều
định ra các luật và quy định cần thiết để coi là hành động vi phạm có thể bị
trừng phạt: một chiếc tàu mang cờ của quốc gia đó hay một người thuộc quyền tài
phán của quốc gia đó đã cố ý hay do cẩu thả mà làm cho một đường dây cáp cao
thế hay một đường ống dẫn ngầm ngoài biển cả bị đứt đoạn hay hư hỏng một đường
dây cáp điện báo hay điện thoại ngầm trong chừng mực có nguy cơ làm rối loạn
hay làm gián đoạn thông tin điện báo hay điện thoại. Điều quy định này cũng áp
dụng cho bất kỳ hành động nào có thể gây nên tình trạng các đường dây cáp hay
ống dẫn ngầm nói trên bị cắt đứt hoặc hư hỏng hay cố ý nhằm gây nên tình trạng
đó. Tuy nhiên, điều quy định này không áp dụng khi việc làm đứt đoạn hay hư
hỏng đường dây cáp và ống dẫn là hành động của những người, sau khi đã thi hành
tất cả các biện pháp phòng ngừa cần thiết để tránh gây ra tình trạng đó, chỉ
hành động nhằm mục đích chính đáng cứu lấy sinh mạng hay con tàu của họ.
ĐIỀU 114. Về
việc một dây cáp hay một ống dẫn ngầm bị đứt đoạn hay hư hỏng do người chủ của
một dây cáp hay một ống dẫn khác gây ra
Mọi quốc ra đều
định ra các luật và quy định cần thiết để trong trường hợp một dây cáp hay một
ống dẫn ngầm ở biển cả bị đứt đoạn hay hư hỏng do việc đặt một dây cáp hay một
ống dẫn ngầm khác của một người có quyền tài phán của mình, người này phải chịu
những phí tổn để sửa chữa những thiệt hại mà mình gây ra.
ĐIỀU 115. Bồi
thường những thiệt hại gây ra do việc tránh làm hư hỏng một dây cáp hay ống dẫn
ngầm
Mọi quốc ra đều
định ra các luật và quy định cần thiết để người chủ của con tàu nào đưa ra được
chứng cứ chứng minh rằng đã chịu mất một chiếc neo, một tấm lưới hay một phương
tiện đánh bắt khác nhằm trành làm hư hỏng một dây cáp hay một ống dẫn ngầm, thì
được người người sở hữu của dây cáp hay một ống dẫn ngầm bồi thường, với điều
kiện là người chủ của con tàu đó đã dùng mọi biện pháp đề phòng hợp lý.
Mục
2
BẢO
TỒN VÀ QUẢN LÝ CÁC TÀI NGUYÊN SINH VẬT CỦA BIỂN CẢ
ĐIỀU 116. Quyền
đánh bắt ở biển cả
Tất cả các quốc
gia đều có quyền cho công dân của mình đánh bắt ở biển cả, với điều kiện:
a) Tuân theo các
nghĩa vụ ghi trong công ước;
b) Tôn trọng các
quyền và nghĩa vụ cũng như các lợi ích của các quốc gia ven biển như đã được
trù định, đặc biệt là trong Điều 63, khoản 2 và trong các Điều từ 64 đến 67; và
c) Tuân theo mục
này
ĐIỀU 117. Nghĩa
vụ của các quốc gia có các biện pháp bảo tồn tài nguyên sinh vật của biển cả
đối với các công dân của mình
Tất cả các quốc
gia có nghĩa vụ định ra các biện pháp có thể cần thiết để áp dụng đối với các
công dân của mình nhảm bảo tồn tài nguyên sinh vật của biển cả hoặc hợp tác với
các quốc gia khác trong việc định ra các biện pháp như vậy.
ĐIỀU 118. Sự
hợp tác của các quốc gia trong việc bảo tồn và quản lý tài nguyên sinh vật biển
Các quốc gia hợp
tác với nhau trong việc bảo tồn và quản lý tài nguyên sinh vật ở biển cả. Các
quốc gia có công dân khai thác tài nguyên sinh vật khác nhau ở trong cùng một
khu vực hoặc các tài nguyên sinh vật giống nhau, thương lượng với nhau để có
những biện pháp cần thiết trong việc bảo tồn các tài nguyên đó. Nhằm mục đích
đó, nếu cần, các nước này hợp tác để lập ra các tổ chức đánh bắt phân khu vực
hoặc khu vực.
ĐIỀU 119. Việc
bảo tồn tài nguyên sinh vật của biển cả
1. Khi quy định
khối lượng cho phép đánh bắt và thi hành các biện pháp khác để bảo tồn các tài
nguyên sinh vật ở biển cả, các quốc gia phải:
a) Dựa trên những
số liệu đáng tin cậy nhất của mình, quan tâm đến việc khôi phục hay duy trì các
đàn (stocks), những loài khai thách ở những mức độ đảm bảo năng suất ổn định
tối đa, có chú ý tới những yếu tố sinh thái và kinh tế thích đáng, kể cả những
nhu cầu đặc biệt của những quốc gia đang phát triển và có tính đến những phương
pháp đánh bắt, đến quan hệ hỗ tương giữa các đàn (stocks) và đến tất cả mọi quy
phạm quốc tế tối thiểu thường được kiến nghị chung trong phạm vi phân khu vực,
khu vực hay thế giới;
b) Quan tâm đến
những tác động của các biện pháp này đối với những loài quần vợt với các loài
bị khai thác hay phụ thuộc vào chúng, để duy trì và khôi phục các đàn (stocks)
của các loài quần hợp hay phụ thuộc này ở mức độ mà việc sinh sản của chúng
không có nguy cơ bị tổn hại nghiêm trọng.
2. Các thông tin
khoa học sẵn có, những số liệu thống kê liên quan đến việc đánh bắt và đến khả
năng của nghề cá và các dữ kiện khác liên quan đến việc bảo tồn và các đàn cá
được phổ biến và trao đổi đều đặn qua trung gian của các tổ chức quốc tế có
thẩm quyền phân khu vực, khu vực hay thế giới, và nếu được, với sự tham gia của
tất cả các quốc gia hữu quan.
3. Các quốc gia
hữu quan chăm lo sao cho những biện pháp bảo tồn và việc áp dụng những biện
pháp đó không dẫn đến một sự phân biệt đối xử nào về mặt pháp lý hay về mặt
thực tế đối với bất cứ ngư dân nào, bất kể họ là công dân của quốc gia nào.
ĐIỀU 120. Các
loài có vú ở biển
Điều 65 cũng áp
dụng cho việc bảo tồn và quản lý các loài có vú ở biển cả.
PHẦN
VIII . CHẾ ĐỘ
CÁC ĐẢO
ĐIÊU 121. Chế
độ các đảo
1. Một đảo là một
vùng đất tự nhiên có nước bao bọc, khi thủy triều lên vùng đất này vẫn ở trên
mặt nước.
2. Với điều kiện
phải tuân thủ khoản 3, lãnh hải, vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền về kinh tế và
thềm lục địa của hòn đảo được hoạch định theo đúng các quy định của Công ước áp
dụng cho các lãnh thổ đất liền khác.
3. Những hòn đảo
đá nào không thích hợp cho con người đến ở hoặc cho một đời sống kinh tế riêng,
thì không có vùng đặc quyền về kinh tế và thềm lục địa.
PHẦN
IX
BIỂN
KÍN HAY NỬA KÍN
ĐIỀU 122. Định
nghĩa
Trong Công ước,
“biển kín hay nửa kín” là một vịnh, một vũng hay một vùng biển do nhiều quốc
gia bao bọc xung quanh và thông với một biển khác hay với đại dương qua một cửa
hẹp, hoặc là hoàn toàn do chủ yếu hay các lãnh hải và các vùng đặc quyền về
kinh tế của nhiều quốc gia tạo thành.
ĐIỀU 123. Sự
hợp tác giữa các quốc gia ven biển kín hay nửa kín
Các quốc gia ở ven
bở một biển kín hay nửa kín cần hợp tác với nhau trong việc sử dụng các quyền
và thực hiện các nghĩa vụ của họ theo Công ước. Vì mục đích này, trực tiếp hoặc
qua trung gian của một tổ chức khu vực thích hợp, các quốc gia này cố gắng:
a) Phối hợp trong
việc quản lý, bảo tồn, thăm dò và khai thác các tài nguyên sinh vật của biển;
b) Phối hợp trong
việc sử dụng các quyền và thực hiện các nghĩa vụ của họ có liên quan đến việc
bảo vệ và giữ gìn môi trường biển;
c) Phối hợp các
chính sách khoa học của họ, và nếu có thể, thực hiện các chương trình nghiên
cứu khoa học chung trong vùng được xem xét;
d) Nếu có thể thì
mời các quốc gia khác hay các tổ chức quốc tế hữu quan hợp tác với họ trong
việc áp dụng điều này.
PHẦN
X
QUYỀN
CỦA CÁC QUỐC GIA KHÔNG CÓ BIỂN ĐI RA BIỂN VÀ TỪ BIỂN VÀO, VÀ TỰ DO QUÁ CẢNH
ĐIỀU 124. Sử
dụng các thuật ngữ
1. Trong Công ước:
a) “Quốc gia không
có biển” (Etat sans littoral) có nghĩa là mọi quốc gia không có bờ biển;
b) “Quốc gia quá
cảnh” (Etat de transit) là mọi quốc gia có hay không có bờ biển, ở giữa một
quốc gia không có bờ biển và biển, việc vận chuyển quá cảnh phải đi qua quốc
gia đó;
c) “Vận chuyển quá
cảnh” (trafic en transit) là việc quá cảnh người, hàng hóa, của cải và các phương
tiện vận tải qua lãnh thổ của một hay nhiều quốc gia quá cảnh, khi quãng đường
ở trên lãnh thổ này, dù có hoặc không có việc chuyển tải, việc lưu kho, việc
chở hàng bị ngắt quãng hay việc thay đổi phương thức vận chuyển, chỉ là một
phần của một chuyến đi hoàn chỉnh hay bắt đầu kết thúc trên lãnh thổ của quốc
gia không có bờ biển;
d) “Phương tiện vận chuyển” (moyens de transport) là:
i. Phương tiện chạy trên đường sắt, tàu đi biển, tàu chạy trên hồ, trên
sông và các xe cộ trên đường bộ;
ii. Khi các điều kiện địa phương bắt buộc, là những người khuân vác hoặc
súc vật kéo.
2. Các quốc gia không có biển và các quốc gia quá cảnh có thể thỏa thuận
xếp vào các phương tiện vận chuyển các ống dẫn và ống dẫn khí đốt và các phương
tiện khác ngoài các phương tiện đã nêu ở khoản 1.
ĐIỀU 125. Quyền đi ra biển và từ biển vào, và tự do quá
cảnh
1. Các quốc gia không có biển có quyền đi ra biển và từ biển vào để sử dụng
các quyền được trù định trong Công ước, kể cả các quyền liên quan đến tự do
trên biển cả và liên quan đến di sản chung của loài người. Vì mục đích ấy, các
quốc gia đó được hưởng tự do quá cảnh qua lãnh thổ của các quốc gia quá cảnh
bằng mọi phương tiện vận chuyển.
2. Các điều kiện và thể thức sử dụng quyền tự do quá cảnh được thỏa thuận
giữa các quốc gia không có biển và các quốc gia quá cảnh hữu quan qua con đường
thỏa thuận tay đôi, phân khu vực hay khu vực.
3. Trong việc sử dụng chủ quyền toàn vẹn trên lãnh thổ của mình, các quốc
gia quá cảnh có quyền ra tất cả mọi biện pháp cần thiết để đảm bảo rằng, các
quyền và các điều kiện thuận lợi được quy định trong phần này vì lợi ích của
quốc gia không có biển, không hề đụng chạm đến lợi ích chính đáng của quốc gia
quá cảnh.
ĐIỀU 126. Loại trừ việc áp dụng điều khoản tối huệ quốc
Các quy định của Công ước cũng như các điều ước đặc biệt liên quan đến việc
sử dụng quyền ra biển và đi từ biển vào trù định các quyền và các điều kiện
thuận lợi cho các quốc gia không có biển do vị trí địa lý đặc biệt của quốc gia
đó, bị loại trừ khỏi việc áp dụng điều khoản tối huệ quốc.
ĐIỀU 127. Các thuế quan, thuế và các khoản lệ phí khác
1. Việc vận chuyển quá cảnh không phải nộp thuế quan, thuế hay mọi khoản lệ
phí khác, ngoài các khoản thuế trả cho các dịch vụ đặc biệt liên quan đến việc
vận chuyển đó.
2. Các phương tiện vận chuyển quá cảnh và các điều kiện thuận lợi khác cho
việc quá cảnh dành cho quốc gia không có biển và được quốc gia này sử dụng,
không phải chịu các thứ thuế hay các khoản lệ phí cao hơn các khoản phải trả
cho việc sử dụng các phương tiện vận chuyển của quốc gia quá cảnh.
ĐIỀU 128. Vùng miễn thuế và các điều kiện thuận lợi khác
về hải quan
Để tạo điều kiện thuận lợi cho việc quá cảnh, vùng miễn thuế hay các điều
kiện hải quan thuận lợi khác có thể trù định ở cảng vào và cảng ra của các quốc
gia quá cảnh, qua con đường thỏa thuận giữa quốc gia này và các quốc gia không
có biển.
ĐIỀU 129. Sự hợp tác trong việc đóng và cải tiến các
phương tiện vận chuyển
Khi trong các quốc gia quá cảnh không có các phương tiện vận chuyển cho
phép sử dụng thật sự quyền tự do quá cảnh, hoặc khi các phương tiện hiện có, kể
cả các trang thiết bị cảng, không thích đáng về bất cứ một phương diện nào,
quốc gia quá cảnh và quốc gia không có biển hữu quan có thể hợp tác để đóng hay
cải tiến các phương tiện hiện có.
ĐIỀU 130. Các biện pháp nhằm tránh tình trạng chậm trễ
hay những khó khăn có tính chất kỹ thuật trong việc vận chuyển quá cảnh, hay
nhằm để loại trừ các nguyên nhân gây ra tình trạng đó
1. Quốc gia quá cảnh thi hành mọi biện pháp thích hợp để tránh mọi tình
trạng chậm trễ hay những khó khăn có tính chất kỹ thuật trong việc vận chuyển
quá cảnh.
2. Các nhà đương cục có thẩm quyền của quốc gia quá cảnh không có biển,
trong trường hợp có tình trạng chậm trễ hay khó khăn, hợp tác để nhanh chóng
loại trừ các nguyên nhân của tình trạng đó.
ĐIỀU 131. Việc đối xử bình đẳng ở trong các cảng biển
Các tàu mang cờ của một quốc gia không có biển được hưởng trong các cảng
biển sự đối xử bình đẳng như các tàu nước ngoài khác.
ĐIỀU 132. Việc dành những điều kiện thuận lợi rộng rãi
hơn cho việc quá cảnh
Công ước không có hàm ý rút bớt những điều kiện thuận lợi rộng rãi hơn
những điều mà Công ước đã trù định và đã được sự thỏa thuận giữa các quốc gia
thành viên hay đã được một quốc gia thành viên chấp nhận. Công ước cũng tuyệt
đối không cấm các quốc gia thành viên trong tương lai dành những điều kiện
thuận lợi rộng rãi hơn.
PHẦN XI. VÙNG
Mục 1
CÁC QUY ĐỊNH CHUNG
ĐIỀU 133. Sử dụng các thuật ngữ
Trong phần này
a) “Tài nguyên” (ressources) là tất cả các tài nguyên khoáng sản ở thể rắn,
lỏng hoặc khí in situ (ở ngay tại chỗ) trong Vùng, nằm ở đáy biển hay
lòng đất dưới đáy biển này, kể cả các khối đá kim (nodules polymétalliques);
b) Các tài nguyên, một khi đã được khai thác từ Vùng, được gọi là “các
khoáng sản” (minéraux)
ĐIỀU 134. Phạm vi áp dụng của phần này
1. Phần này được áp dụng đối với Vùng
2. Các hoạt động tiến hành trong Vùng do phần này điều chỉnh.
3. Việc gửi lưu chiểu các bản đồ hay bản kê các tọa độ địa lý xác định vị
trí các ranh giới nêu ở Điều 1, khoản 1, cũng như việc công bố các bản đồ hay
bản kê tọa độ đó, do phần VI điều chỉnh.
4. Không một điều nào của quy định này đụng chạm đến việc xác đinh ranh
giới ngoài của thềm lục địa theo đúng phần VI hay đến hiệu lực của các điều ước
liên quan đến việc hoạch định ranh giới giữa các quốc gia có bờ biển tiếp liền
hay đối diện nhau.
ĐIỀU 135. Chế độ pháp lý của vùng nước và vùng trời nói
trên
Phần này cũng như các quyền được hưởng hay được thực hiện theo phần này
không ảnh hưởng đến chế độ pháp lý của vùng nước ở phía trên Vùng hay đến chế
độ pháp lý của vùng trời ở phía trên vùng nước này.
Mục 2
CÁC NGUYÊN TẮC QUẢN LÝ VÙNG
ĐIỀU 136. Di sản chung của loài người
Vùng và tài nguyên của nó là di sản chung của loài người.
ĐIỀU 137. Chế độ pháp lý của Vùng và các tài nguyên của
nó
1. Không một quốc gia nào có thể đòi hỏi thực hiện chủ quyền hay các quyền
thuộc chủ quyền ở một phần nào đó của Vùng hoặc đối với tài nguyên của Vùng;
không một quốc gia nào và không một tự nhiên nhân hay pháp nhân nào có thể
chiếm đoạt bất cứ một phần nào đó của Vùng hoặc tài nguyên của Vùng. Không một
yêu sách, một việc thực hiện chủ quyền hay các quyền thuộc quyền chủ quyền này
cũng như một hành động chiếm đoạt nào được thừa nhận.
2. Toàn thể loài người, mà Cơ quan quyền lực là người thay mặt có tất cả
các quyền đối với các tài nguyên của Vùng. Những tài nguyên này không thể
chuyển nhượng được. Còn các khoáng sản đã được khai thác từ Vùng thì chỉ có thể
chuyển nhượng theo đúng phần này và phù hợp với các nguyên tắc, quy định và các
thủ tục của Cơ quan quyền lực.
3. Một quốc gia hay một tự nhiên nhân hay pháp nhân chỉ được đòi hỏi, giành
lấy hoặc thực hiện các quyền đối với các khoáng sản đã được khai thác ở Vùng
theo đúng phần này. Các quyền đã đòi hỏi, giành được hay được thực hiện bằng
cách khác đều không được thừa nhận.
ĐIỀU 138. Cách xử sự chung của các quốc gia liên quan đến
Vùng
Trong cách xử sự chung liên quan đến Vùng, các quốc gia tuân theo phần này,
các nguyên tắc được nêu trong Hiến chương Liên Hợp quốc và các quy tắc khác của
pháp luật quốc tế, với sự quan tâm giữ gìn hòa bình và an ninh, đẩy mạnh sự hợp
tác quốc tế và hiểu biết lẫn nhau.
ĐIỀU 139. Nghĩa vụ chăm lo đến việc tôn trọng Công ước và
trách nhiệm trong trường hợp có thiệt hại
1. Các quốc gia thành viên có nghĩa vụ quan tâm đến việc bảo đảm cho các
hoạt động trong Vùng, dù do bản thân các quốc gia đó, do các xí nghiệp Nhà nước
của họ hoặc do các tự nhiên nhân hay pháp nhân mang quốc tịch của họ hoặc chịu
sự kiểm soát thật sự của họ hay các công dân của họ, được tiến hành theo đúng
với phần này. Các tổ chức quốc tế cũng có nghĩa vụ như vậy với các hoạt động
trong vùng.
2. Không phương hại đến các quy tắc của pháp luật quốc tế và đến Điều 22
của Phụ lục III, một quốc gia thành viên hay một tổ chức quốc tế phải chịu
những trách nhiệm về các thiệt hại do một thiếu sót của mình đối với những
nghĩa vụ mà họ phải đảm nhận theo phần này; các quốc gia thành viên hay các tổ
chức quốc tế khi cùng hành động thì phải liên đới chịu trách nhiệm. Tuy nhiên,
quốc gia thành viên không chịu trách nhiệm về các thiệt hại do một thiếu sót
như vậy của một người do quốc gia này bảo trợ theo Điều 153; khoản 2, điểm b,
nếu quốc gia này đã thi hành tất cả các biện pháp cần thiết và thích hợp để bảo
đảm việc tôn trọng thật sự phần này của các phụ lục có liên quan, như đã trù
định trong Điều 153, khoản 4 và Điều 4 khoản 4 của Phụ lục III.
3. Các quốc gia thành viên là hội viên của các tổ chức quốc tế cần thi hành
những biện pháp thích hợp để bảo đảm việc áp dụng điều này đối với các tổ chức
đó.
ĐIỀU 140. Lợi ích của loài người
1. Các hoạt động trong vùng được tiến hành, như đã được ghi nhận rõ ràng
trong phần này, là vì lợi ích của toàn thể loài người, không phụ thuộc vào vị
trí của các quốc gia, dù là quốc gia có biển hay không có biển, và có lưu ý đặc
biệt đến các lợi ích và nhu cầu của quốc gia đang phát triển và của các dân tộc
chưa giành được nền độc lập đầy đủ hay một chế độ tự trị khác được Liên hợp
quốc thừa nhận theo đúng Nghị quyết 1514 (XV) và các nghị quyết tương ứng khác
của Đại hội đồng.
2. Cơ quan quyền lực bảo đảm việc phân chia công bằng, trên cơ sở không
phân biệt đối xử, những lợi ích tài chính và các lợi ích kinh tế khác do những
hoạt động tiến hành trong Vùng qua một bộ máy thích hợp theo đúng Điều 160
khoản 2, điểm f, điểm nhỏ i, đem lại.
ĐIỀU 141. Sử dụng vùng vào những mục đích hoàn toàn hòa
bình
Vùng để ngỏ cho tất cả các quốc gia, dù quốc gia có biển hay không có biển,
sử dụng vào những mục đích hoàn toàn hòa bình, không phân biệt đối xử và không
phương hại đến các điều quy định khác của phần này.
ĐIỀU 142. Các quyền và lợi ích chính đáng của các quốc
gia ven biển
1. Trong trường hợp các vỉa tài nguyên của Vùng trải rộng ra ngoài ranh
giới của Vùng, thì những hoạt động tiến hành trong Vùng cũng được mở rộng như
thế, nhưng phải tính đến các quyền và lợi ích chính đáng của quốc gia ven biển
có quyền tài phán đối với các vỉa tài nguyên nói trên.
2. Một phương thức tham khảo ý kiến với quốc gia hữu quan, và nhất là
phương thức thông báo trước, đặt ra để tránh bất kỳ sự xâm phạm nào đến các
quyền và lợi ích đó. Trong những trường hợp mà các hoạt động tiến hành trong
Vùng có thể dẫn đến việc khai thác các tài nguyên ở phía trong các ranh giới
thuộc quyền tài phán quốc gia của một quốc gia ven biển thì cần phải có sự đồng
ý trước của quốc gia này.
3. Phần này cũng như các quyền được thừa nhận hay được sử dụng theo phần
này, không xâm phạm đến quyền của quốc gia ven biển được thi hành những biện
pháp phù hợp với các quy định tương ứng của phần XII có thể cần thiết để ngăn
ngừa, hạn chế hay loại bỏ một mối nguy hiểm nghiêm trọng và sắp xảy ra đối với
vùng duyên hải của họ hoặc đối với các lợi ích có liên quan do một tình trạng ô
nhiễm hay một sự đe dọa ô nhiễm nảy sinh từ tất cả các hoạt động tiến hành
trong Vùng hay do tất cả các tai nạn khác gây ra bởi các hoạt động đó.
ĐIỀU 143. Việc nghiên cứu khoa học biển
1. Việc nghiên cứu khoa học biển trong Vùng được tiến hành nhằm những mục
đích hoàn toàn hòa bình và vì lợi ích của toàn thể loài người theo đúng phần
XIII.
2. Cơ quan quyền lực có thể thực hiện các công trình nghiên cứu khoa học
biển đối với Vùng và các tài nguyên của Vùng và có thể ký các hợp đồng nhằm mục
đích này. Cơ quan quyền lực tạo điều kiện thuận lợi, khuyến khích việc nghiên
cứu khoa học biển trong Vùng; phối hợp, phổ biến các kết quả của các công trình
nghiên cứu và phân tích đó khi chúng sẵn sàng sử dụng được.
3. Các quốc gia thành viên có thể tiến hành các công trình nghiên cứu khoa
học biển trong Vùng. Các quốc gia này tạo điều kiện dễ dàng cho việc hợp tác
quốc tế về nghiên cứu khoa học biển trong vùng, bằng cách:
a) Tham gia các chương trình quốc tế và khuyến khích việc hợp tác về nghiên
cứu khoa học biển do nhân viên của các nước và nhân viên của Cơ quan quyền lực
thực hiện;
b) Quan tâm đến việc các chương trình, được soạn thảo qua trung gian của Cơ
quan quyền lực hay tùy theo tình hình, qua trung gian của các tổ chức quốc tế
khác, vì lợi ích của các quốc gia đang phát triển và các quốc gia kém phát
triển về mặt kỹ thuật, nhằm:
i. Tăng cường tiềm lực nghiên cứu của họ;
ii. Đào tạo nhân viên của quốc gia đó và nhân viên của Cơ quan quyền lực về
kỹ thuật và về ứng dụng công trình nghiên cứu tiến hành trong Vùng;
c) Phổ biến một cách có hiệu quả các kết quả nghiên cứu và phân tích, khi
các kết quả này có thể sử dụng được, qua trung gian của Cơ quan quyền lực hay
nếu có thể, qua các bộ máy quốc tế khác.
ĐIỀU 144. Chuyển giao kỹ thuật.
1. Theo đúng Công ước, Cơ quan quyền lực thi hành các biện pháp để:
a) Nắm được những kỹ thuật và kiến thức khoa học liên quan đến các hoạt
động tiến hành trong Vùng; và
b) Tạo điều kiện thuận lợi và khuyến khích việc chuyển giao cho các quốc
gia đang phát triển các kỹ thuật và kiến thức khoa học nói trên, sao cho mọi
quốc gia thành viên đều được hưởng.
2. Vì mục đích này, Cơ quan quyền lực và các quốc gia thành viên hợp tác để
thúc đẩy việc chuyển giao kỹ thuật và các kiến thức khoa học liên quan đến
những hoạt động tiến hành trong Vùng sao cho Xí nghiệp và tất cả các quốc gia
thành viên đều có thể được hưởng. Đặc biệt, Cơ quan quyền lực và các quốc gia
thành viên đề xuất hoặc khuyến khích:
a) Các chương trình để chuyển giao cho Xí nghiệp và cho các quốc gia đang
phát triển các kỹ thuật liên quan đến các hoạt động tiến hành trong Vùng, nhất
là trù định cho Xí nghiệp và các quốc gia đang phát triển, những điều kiện
thuận lợi để nắm được các kỹ thuật thích hợp theo những thể thức và các điều
kiện công bằng hợp lý;
b) Những biện pháp nhằm bảo đảm sự tiến bộ về kỹ thuật của Xí nghiệp và
những kỹ thuật trong nước của các quốc gia đang phát triển, đặc biệt là tạo
điều kiện cho nhân viên của Xí nghiệp và của các quốc gia này được đào tạo về
khoa học và kỹ thuật biển, cũng như được tham gia đầy đủ vào các hoạt động tiến
hành trong vùng.
ĐIỀU 145. Bảo vệ môi trường biển
Đối với các hoạt động tiến hành trong Vùng, các biện pháp cần thiết phải
được thi hành theo đúng Công ước để bảo vệ có hiệu quả môi trường biển chống
lại những tác hại có thể do các hoạt động đó gây ra. Vì mục đích đó, Cơ quan
quyền lực định ra các quy tắc, quy định và thủ tục thích hợp, đặc biệt nhằm để:
a) Ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự nạn ô nhiễm môi trường biển, kể cả vùng
duyên hải và đối phó với những nguy cơ khác đe dọa môi trường đó, cũng như với
bất kỳ sự biến động nào về tình trạng cân bằng sinh thái của môi trường biển,
bằng cách, đặc biệt chú ý đến sự cần thiết phải bảo vệ môi trường chống lại
những tác hại của những hoạt động như khoan, nạo vét, đào, loại bỏ các chất
thải, xây dựng và khai thác hay bảo dưỡng các thiết bị, ống dẫn và các phương
tiện khác được sử dụng vào các hoạt động này;
b) Bảo vệ và bảo tồn các tài nguyên thiên nhiên của Vùng và phòng ngừa
thiệt hại đối với hệ thực vật và động vật ở biển.
ĐIỀU 146. Bảo vệ sự sống của con người
Đối với các hoạt động tiến hành trong Vùng, những biện pháp cần thiết phải
được thi hành để bảo đảm việc bảo vệ có hiệu quả sự sống của con người. Vì mục
đích ấy, Cơ quan quyền lực định ra các quy tắc, quy định và thủ tục thích hợp
để bổ sung cho pháp luật quốc tế hiện tại như đã ghi trong các hiệp ước về vấn
đề này.
ĐIỀU 147. Sự phù hợp của các biện pháp được tiến hành ở
trong Vùng và các hoạt động khác đang thực hiện trong môi trường biển
1. Các hoạt động được tiến hành trong Vùng cần phải được quan tâm một cách
hợp lý đến các hoạt động khác đang được thực hiện trong môi trường biển.
2. Các điều kiện sau đây được áp dụng cho các thiết bị được sử dụng cho các
hoạt động tiến hành trong Vùng:
a) Các thiết bị này chỉ được xây lắp, bố trí và tháo gỡ theo đúng với phần
này và trong các điều kiện do các quy tắc, quy định và thủ tục của Cơ quan
quyền lực đề ra. Việc xây lắp, bố trí và tháo gỡ chúng phải được thông báo đúng
thủ tục và cần phải duy trì các phương tiện thường trực để báo hiệu sự có mặt
của các thiết bị đó;
b) Các thiết bị này không được đặt ở các vị trí có thể gây trở ngại cho
việc sử dụng các đường giao thông được thừa nhận là thiết yếu đối với hàng hải
quốc tế, cũng không được đặt trong các vùng mật độ đánh cá tập trung;
c) Các thiết bị này được các vùng an toàn bao quanh; các vùng an toàn này
được đánh dấu một cách thích hợp để bảo đảm an toàn cho bản thân và các thiết
bị đó và cho hàng hải. Hình thể và vị trí của các Vùng an toàn này được xác
định sao cho chúng không tạo thành một vành đai cản trở các tàu thuyền đi đến
một số Vùng biển nào đó một cách hợp pháp, hay cản trở giao thông trên các
đường hàng hải quốc tế;
d) Các thiết bị này được dùng vào những mục đích hoàn hòa bình;
e) Các thiết bị này không có quy chế của các đảo. Chúng không có lãnh hải
riêng; sự có mặt của chúng không ảnh hưởng đến việc hoạch định ranh giới lãnh
hải, vùng đặc quyền về kinh tế hay thềm lục địa.
3. Các hoạt động khác diễn ra trong môi trường biển được tiến hành với sự
chú ý đúng mức đến các hoạt động được tiến hành trong Vùng.
ĐIỀU 148. Sự tham gia của các quốc gia đang phát triển
vào các hoạt động tiến hành trong Vùng
Việc tham gia của các quốc gia đang phát triển vào các hoạt động tiến hành
trong Vùng được khuyến khích, như đã được trù định rõ ràng trong phần này, với
sự chú ý thích đáng đến các nhu cầu và lợi ích đặc biệt của các quốc gia này,
và nhất là nhu cầu đặc biệt của các quốc gia đang phát triển không có biển hay
ở vào hoàn cảnh địa lý bất lợi, cần vượt qua những trở ngại do vị trí bất lợi
của họ gây ra, đặc biệt là vì họ ở xa Vùng và việc họ đến Vùng và rời khỏi Vùng
đều khó khăn.
ĐIỀU 149. Các di vật khảo cổ và lịch sử
Tất cả các di vật khảo cổ hay lịch sử tìm thấy ở trong Vùng, đều được bảo
tồn hay nhượng lại, vì lợi ích của toàn thể loài người, đặc biệt quan tâm đến
các quyền ưu tiên của quốc gia hay của nơi xuất xứ hoặc của quốc gia xuất xứ về
văn hóa, hay còn của quốc gia xuất xứ về lịch sử hay khảo cổ.
Mục 3
KHAI THÁC CÁC TÀI NGUYÊN CỦA VÙNG
ĐIỀU 150. Chính sách chung liên quan đến các hoạt động
tiến hành trong Vùng
Các hoạt động tiến hành trong Vùng, như đã được trù định rõ ràng trong phần
này, phải làm sao tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển hài hòa nền kinh tế
thế giới và sự mở rộng một cách cân đối nền thương mại quốc tế, thúc đẩy hợp
tác quốc tế vì sự phát triển toàn diện của tất cả các quốc gia, và đặc biệt là
các quốc gia đang phát triển, và nhằm:
a) Khai thác các tài nguyên của Vùng;
b) Quản lý một cách có phương pháp, chắc chắn và hợp lý các tài nguyên của
Vùng, đặc biệt quan tâm làm sao cho các hoạt động tiến hành trong Vùng có hiệu
quả, tránh bất kỳ sự lãng phí nào, theo đúng những nguyên tắc đúng đắn về bảo
tồn.
c) Tăng cường các khả năng tham gia vào các hoạt động này, đặc biệt là phù
hợp với Điều 144 và Điều 148;
d) Bảo đảm cho Cơ quan quyền lực được dự phần vào các thu nhập và việc
chuyển giao kỹ thuật cho Xí nghiệp và cho các quốc gia đang phát triển theo
đúng Công ước;
e) Tùy theo nhu cầu, tăng thêm số lượng khoáng sản khai thác từ Vùng để
cùng với các khoáng sản khai thác từ nguồn khác, bảo đảm cung cấp cho người
tiêu thụ các khoáng sản này;
f) Tạo điều kiện thuận lợi để hình thành giá cả đúng và ổn định đối với các
khoáng sản được khai thác từ Vùng, cũng như các khoáng sản từ các nguồn khác,
có lợi cho người sản xuất và đúng mức cho người tiêu thụ, bảo đảm sự cân bằng
lâu dài giữa cung và cầu;
g) Tạo cho tất cả các quốc gia thành viên, bất kể chế độ xã hội và kinh tế
hay địa lý của họ như thế nào, có những khả năng to lớn hơn trong việc tham gia
khai thác các tài nguyên của Vùng, và ngăn cản việc độc quyền hóa các hoạt động
tiến hành trong Vùng;
h) Bảo vệ các quốc gia đang phát triển, theo đúng Điều 151, khỏi những ảnh
hưởng bất lợi đối với nền kinh tế hay thu nhập về xuất khẩu của họ do việc hạ
giá của một khoáng sản trong số các khoáng sản được khai thác trong Vùng hay do
sự giảm bớt khối lượng xuất khẩu loại khoáng sản này, trong chừng mực mà việc
hạ giá hay giảm bớt đó do các hoạt động tiến hành trong Vùng gây ra;
i) Khai thác di sản chung vì lợi ích của toàn thể loài người;
j) Làm sao cho những điều kiện tiếp xúc với các thị trường để nhập khẩu các
khoáng sản khai thác từ Vùng và nhập khẩu những sản phẩm đầu tiên được rút ra
từ những khoáng sản này, không thuận lợi hơn những điều kiện thuận lợi nhất áp
dụng cho việc nhập khẩu các khoáng sản và các sản phẩm đầu tiên khai thác được
từ các nguồn khác.
ĐIỀU 151. Chính sách về sản xuất
1. a) Không phương hại đến những mục tiêu đã được nêu ở Điều 150 và nhằm áp
dụng điểm h) của điều đó, qua trung gian của các cấp thẩm quyền hiện có, hay
nếu cần thì, trong khuôn khổ của những dàn xếp hay hiệp định mới với sự tham
gia của tất cả các bên hữu quan, kể cả người sản xuất và người tiêu thụ, Cơ
quan quyền lực thi hành các biện pháp cần thiết để tạo thuận lợi cho sự gia
tăng, sự hoạt động có hiệu quả và sự ổn định của các thị trường đối với những
sản phẩm đầu tiên rút ra từ các khoáng sản khai thác trong Vùng, với giá cả có
lợi cho người sản xuất và đúng mức đối với người tiêu thụ. Tất cả các quốc gia
thành viên hợp tác vì mục đích này.
b) Cơ quan quyền lực có quyền tham gia vào bất kỳ hội nghị sản phẩm nào bàn
về những sản phẩm đầu tiên này, và ở đó, tất cả các bên hữu quan, kể cả người
sản xuất và người tiêu thụ, đều tham dự. Cơ quan quyền lực có quyền trở thành
thành viên của bất kỳ sự dàn xếp hay hiệp định nào đạt được khi kết thúc những
hội nghị như vậy. Đối với những vấn đề có liên quan đến việc sản xuất trong
Vùng, Cơ quan quyền lực tham gia vào bất kỳ cơ quan nào được lập ra theo dàn
xếp hay hiệp định đã nêu trên theo đúng các quy tắc có liên quan đến cơ quan
đó.
c) Cơ quan quyền lực làm tròn các nghĩa vụ được giao phó theo các dàn xếp
hay hiệp định nói ở khoản này, bảo đảm cho các dàn xếp hay hiệp định đó được áp
dụng thống nhất và không phân biệt đối xử đối với toàn bộ việc sản xuất các
khoáng sản có liên quan trong vùng. Làm như thế, Cơ quan quyền lực hành động
một cách phù hợp với các điều khoản của các hợp đồng hiện hành và các quy định
của những kế hoạch làm việc của Xí nghiệp đã được chuẩn y.
2. a) Trong giai đoạn quá độ được định rõ ở khoản 3, việc sản xuất hàng hóa
chỉ có thể bắt đầu dưới danh nghĩa một kế hoạch làm việc đã được chuẩn y, nếu
người khai thác đã xin phép Cơ quan quyền lực và đã được Cơ quan quyền lực cho
phép sản xuất; Việc cho phép này không thể xin hay cấp trước thời hạn dự kiến
bắt đầu sản xuất hàng hóa theo kế oạch làm việc quá 5 năm, trừ khi Cơ quan
quyền lực quy định một thời hạn khác trong các quy tắc, quy định và thủ tục của
mình, căn cứ vào tính chất và tiến trình thực hiện các dự án;
b) Trong đơn xin phép của mình, người khai thác ghi rõ số lượng kền hàng
năm dự kiến khai thác theo kế hoạch làm việc đã được chuẩn y. Đơn này gồm có 1
bảng chi phí mà, sau khi nhận được giấy phép, sẽ được người khai thác thực hiện
và đã được tính toán một cách hợp lý để cho phép người khai thác bắt đầu việc
sản xuất hàng hóa vào thời điểm đã được dự định.
c) Để áp dụng các điểm a và b, Cơ quan quyền lực định ra các quy phạm về
hiệu quả, theo đúng Điều 17 của Phụ lục III.
d) Cơ quan quyền lực cấp một giấy phép sản xuất theo số lượng được ghi rõ
trong đơn yêu cầu, trừ khi tổng số lượng này và những số lượng được phép trước
đây vượt quá, đối với bất cứ một năm sản xuất nào trong giai đoạn quá độ, mức
cao nhất về sản lượng kền được tính toán theo đúng khoản 4 cho năm mà giấy phép
được cấp;
e) Đơn xin và cấp giấy phép sản xuất trở thành bộ phận hữu cơ của kế hoạch
làm việc được chuẩn y;
f) Nếu đơn xin phép của người khai thác bị từ chối theo điểm d, người này
bất cứ lúc nào cũng có thể nộp đơn mới cho Cơ quan quyền lực.
3. Giai đoạn quá độ bắt đầu 5 năm trước ngày mùng 1 tháng Giêng của năm dự
tính bắt đầu việc sản xuất hàng hóa đầu tiên với danh nghĩa của một kế hoạch
làm việc đã được chuẩn y. Trong trường hợp việc bắt đầu sản xuất hàng hóa bị
hoãn đến một năm nào đó sau năm đã dự kiến thì thời điểm bắt đầu của giai đoạn
quá độ và mức tối đa của sản lượng tính toán ban đầu được điều chỉnh lại cho
phù hợp. Giai đoạn quá độ kết thúc sau 25 năm, hoặc cho đến khi kết thúc Hội
nghị xét duyệt lại được nêu ở Điều 155, hay cho đến ngày mà các thỏa thuận hay
hiệp định mới đề cập ở khoản 1 có hiệu lực, thời hạn nào gần nhất thì được sử
dụng, nếu các thỏa thuận hay hiệp định đó đã trở nên hết hiệu lực hay không còn
tác dụng vì một lý do nào đó, thì những quyền được trù định trong điều này đối
với phần còn lại của giai đoạn quá độ được trao lại cho Cơ quan quyền lực.
4. a) Mức sản xuất tối đa có hiệu lực cho bất cứ một năm nào của giai đoạn
quá độ có được do tổng của:
i. Số chênh lệch giữa giá trị của đường biểu diễn xu hướng tiêu thụ kền cho
năm trước năm bắt đầu sản xuất hàng hóa đầu tiên và giá trị của đường biểu diễn
đó cho năm ngay trước khi bắt đầu giai đoạn quá độ, các giá trị đó được tính
theo đúng điểm b; và
ii. 60% số chênh lệch giữa giá trị của đường biểu diễn xu hướng tiêu thụ
kền cho năm xin cấp giấy phép sản xuất và giá trị của đường biểu diễn này cho
năm trước năm bắt đầu sản xuất hàng hóa đầu tiên; những giá trị này được tính
toán theo đúng điểm h.
b) Trong điểm a
này:
i. Những giá trị
của đường biểu diễn xu hướng được sử dụng để tính toán mức sản lượng kền tối đa
là những giá trị tiêu thụ kền hàng năm thể hiện trên một đường biểu diễn xu
hướng độc lập nên trong năm cấp giấy phép sản xuất. Đường biểu diễn đó được lập
ra theo phép hồi quy tuyến tính lô-ga-rít các số liệu vầ mức tiêu thụ kền thực
sự hàng năm tương ứng với giai đoạn 15 năm gần nhất mà người ta có các số liệu,
thời gian được coi là biến số thiên độc lập. Đường biểu diễn xu hướng này được
gọi là đường biểu diễn xu hướng ban đầu;
ii. Nếu tỷ suất
tăng hàng năm được thể hiện trên đường biểu diễn xu hướng dưới 30% để xác định
các số lượng đã nói ở điểm a, người ta thay đường biểu diễn này bằng một đường
biểu diễn xu hướng lập ra sao cho nó cắt đường biểu diễn xu hướng ban đầu ở
điểm biểu thị giá trị tiêu thụ cho năm đầu của thời kỳ 15 năm được xem xét, và
để cho độ dốc của nó phù hợp với một sự gia tăng hàng năm là 3%. Tuy nhiên, sản
lượng tối đa được quy định cho một năm nào đó của giai đoạn quá độ trong bất kỳ
trường hợp nào cũng không thể vượt quá số chênh lệch giữa giá trị của đường
biểu diễn xu hướng ban đầu cho năm xem xét đó và giá trị của đường biểu diễn
này cho năm ngay trước khi bắt đầu giai đoạn quá độ.
5. Đối với mức sản
xuất ban đầu của Xí nghiệp, Cơ quan quyền lực dành cho Xí nghiệp một số lượng
38.000 tấn kền trên số lượng được ấn định là sản lượng tối đa theo đúng khoản
4;
6. a) Trong một
năm nào đó, một người khai thác có thể sản xuất dưới mức sản xuất hàng năm các
khoáng sản lấy từ các khối đa kim đã ghi trong giấy phép sản xuất của mình hoặc
vượt qua mức đó, tối đa là 8%, miễn là tổng sản lượng không vượt quá sản lượng
ghi trong giấy phép. Bất kỳ sự vượt quá nào trong khoảng từ 8% đến 20% đối với
một năm nào đó hay bất kỳ sự vượt quá nào đối với một năm tiếp theo 2 năm liên
tiếp trong đó mức sản xuất ấn định bị vượt, đều phải thương lượng với Cơ quan
quyền lực; Cơ quan quyền lực có thể đòi người khai thác phải xin một giấy phép
sản xuất bổ sung.
b) Cơ quan quyền
lực chỉ xét các đơn yêu cầu sản lượng bổ sung, khi mà cơ quan đó đã xét xong
tất cả các đơn xin sản xuất đang chờ giải quyết và đã xem xét đúng mức đến các
khả năng còn có những đơn vị khác nữa. Về vấn đề này nguyên tắc chỉ đạo của Cơ
quan quyền lực là trong bất cứ một năm nào của giai đoạn quá độ không được vượt
quá tổng sản lượng được phép sản xuất theo công thức hạn chế sản lượng. Cơ quan
quyền lực không cho phép bất cứ một kế hoạch làm việc nào sản xuất một khối
lượng vượt quá 46.500 tấn kền trong một năm.
7. Sản lượng các
kim loại khác như đồng, cô-ban và măng-gan rút ra từ các khối đa kim được khai
thác theo một giấy phép sản xuất, không được vượt quá mức có thể đạt được, nếu
như những người khai thác đã lấy ra từ các khối đa kim này số lượng kền tối đa
tính đúng theo điều này. Cơ quan quyền lực định ra các quy tắc, quy định và thủ
tục theo đúng Điều 17 của Phụ lục III, trong đó có trù định các thể thức thi
hành những khoản này.
8. Các quyền và
nghĩa vụ liên quan đến các tập quán kinh tế không chính đáng được trù định
trong khuôn khổ và các hiệp định thương mại nhiều bên tương ứng, được áp dụng
vào công việc thăm dò và khai thác khoáng sản trong Vùng. Để giải quyết các
tranh chấp thuộc phạm vi điều quy định này, các quốc gia thành viên tham gia
vào các hiệp định thương mại nhiều bên nói trên dựa vào các thủ tục giải quyết
các tranh chấp được trù định trong các hiệp định đó.
9. Cơ quan có
quyền hạn chế mức sản xuất các khoáng sản trong Vùng, ngoài các khoáng sản rút
ra từ các khối đa kim, theo các điều kiện và phương pháp mà Cơ quan quyền lực
cho là thích hợp, bằng cách thông qua các quy tắc theo đúng Điều 161, khoản 8.
10. Theo kiến nghị
của Hội đồng, dựa trên ý kiến của Ủy ban kế hoạch hóa kinh tế, Đại hội đồng
định ra một chế độ bù trừ hoặc thi hành các biện pháp trợ giúp khác, có tác
dụng tạo điều kiện dễ dàng cho việc điều chỉnh kinh tế, kể cả việc hợp tác với
các cơ quan chuyên trách hay các tổ chức quốc tế khác, đề giúp đỡ các nước đang
phát triển mà nền kinh tế và thu nhập xuất khẩu bị ảnh hưởng nghiêm trọng trước
những tác động bất lợi do một khoáng sản trong số các khoáng sản được khai thác
từ Vùng bị hạ giá hay do khối lượng xuất khẩu loại khoáng sản đuộc khai thác từ
Vùng bị hạ giá hay do khối lượng xuất khẩu loại khoáng sản này của họ giảm sút,
trong chừng mực mà việc hạ giá hay giảm sút khối lượng này do các hoạt động
trong Vùng gây nên. Cơ quan quyền lực tiến hành nghiên cứu về những vấn đề của
các quốc gia có nguy cơ bị ảnh hưởng nặng nề nhất, nhằm giảm đến mức tối thiểu
những khó khăn của họ, và để giúp đỡ họ tiến hành điều chỉnh kinh tế theo yêu
cầu của họ.
ĐIỀU 152. Việc
thi hành các quyền hạn và chức năng
1. Cơ quan quyền
lực tránh mọi sự phân biệt đối xử trong khi thi hành quyền hạn và chức năng của
mình, nhất là khi Cơ quan quyền lực cho phép tiến hành các hoạt động trong
Vùng.
2. Tuy nhiên, theo
các điều được quy định rõ ràng của phần này, Cơ quan quyền lực có thể dành sự
qua tâm đặc biệt đối với các quốc gia đang phát triển, và đặc biệt là những
quốc gia không có biển hay bất lợi về địa lý trong số các quốc gia phát triển
này.
ĐIỀU 153. Hệ
thống thăm dò và khai thác
1. Các hợp đồng
tiến hành trong Vùng được Cơ quan quyền lực thay mặt cho toàn thể loài người tổ
chức, thực hiện và kiểm soát theo đúng điều này, và theo đúng các quy định
tương ứng khác của phần này và phụ lục liên quan đến các hoạt động đó, cũng
như, các quy tắc, quy định và thủ tục của Cơ quan quyền lực.
2. Các hoạt động
tiến hành trong Vùng theo đúng khoản 3 do các thành phần sau đây tiến hành:
a) Xí nghiệp và,
b) Kết hợp với Cơ
quan quyền lực, các quốc gia thành viên hay các xí nghiệp Nhà nước, hoặc các tự
nhiên nhân hay pháp nhân có quốc tịch của các quốc gia thành viên hay do quốc
gia đó hoặc các công dân của các quốc gia đó kiểm soát thực sự, khi họ được sự
bảo trợ của các quốc gia này hoặc của bất kỳ một nhóm nào thuộc những loại kể
trên đáp ứng các điều kiện được quy định trong phần này và ở Phụ lục III;
3. Các hoạt động
tiến hành trong Vùng phải theo một kế hoạch làm việc chính thức và bằng văn
bản, được lập ra theo đúng phụ lục III và được Hội đồng chuẩn y, sau khi được
Ủy ban pháp lý và kỹ thuật xem xét. Trong trường hợp các hoạt động tiến hành
trong vùng theo giấy phép của Cơ quan quyền lực do các thể hay cá nhân nói ở
khoản 2, điểm b thực hiện, kế hoạch làm việc mang hình thức của một hợp đồng,
theo đúng Điều 3 của Phụ lục III. Hợp đồng có thể trù định các thỏa thuận về
liên doanh theo đúng Điều 11 của Phụ lục III.
4. Cơ quan quyền
lực thực hiện kiểm soát cần thiết đối với các hoạt động tiến hành trong Vùng,
để bảo đảm tôn trọng các quy định tương ứng của phần này và của các phụ lục có
liên quan, các quy tắc, quy định và thủ tục của Cơ quan quyền lực, cũng như,
các kế hoạch làm việc được chuẩn y theo đúng khoản 3. Các quốc gia thành viên
giúp đỡ Cơ quan quyền lực bằng cách thi hành tất cả các biện pháp cần thiết để
bảo đảm tôn trọng các văn bản này theo đúng Điều 139.
5. Bất kỳ lúc nào,
Cơ quan quyền lực cũng có quyền thi hành mọi biện pháp được trù định trong phần
này để bảo đảm tôn trọng phần này và để có thể thi hành các chức năng kiểm soát
và ra quy định của mình theo phần này hay theo một hợp đồng. Cơ quan quyền lực
có quyền kiểm tra tất cả các thiết bị được sử dụng để tiến hành các hoạt động
trong Vùng và được đặt ở trong Vùng.
6. Mọi hợp đồng
được ký kết theo đúng khoản 3 đều trù định việc bảo đảm danh nghĩa.
Do vậy, chỉ có thể
xét lại, tạm hoãn hay hủy bỏ hợp đồng theo các điều 18 và 19 của Phụ lục III.
ĐIỀU 154. Xem
xét định kỳ
Cứ 5 năm một lần
kể từ khi Công ước có hiệu lực, Đại hội đồng lại tiến hành một cuộc xem xét
chung và có hệ thống xem chế độ quốc tế của Vùng do Công ước lập ra đã hoạt
động trong thực tiễn như thế nào. Dựa vào kết quả của cuộc xem xét này, Đại hội
đồng có thể thi hành hay khuyến nghị cho các cơ quan khác thi hành các biện
pháp phù hợp với các quy định, thủ tục được trù định trong phần này và các phụ
lục có liên quan và cho phép cải tiến sự hoạt động của chế độ.
ĐIỀU 155. Hội
nghị xét duyệt lại
1. 15 năm sau ngày
mùng 1 tháng Giêng của năm bắt đầu sản xuất hàng hóa đầu tiên theo một kế hoạch
làm việc đã được chuẩn y, Đại hội đồng sẽ triệu tập một hội nghị để xét duyệt
lại các quy định của phần này và các phụ lục có liên quan, điều chỉnh hệ thống
thăm dò và khai thác tài nguyên của Vùng. Dưới ánh sáng của kinh nghiệm thu
được trong giai đoạn qua, hội nghị sẽ xem xét cụ thể:
a) Các quy định
trong phần này điều chỉnh hệ thống thăm dò và khai thác tài nguyên của Vùng có
đạt được những mục tiêu của chúng về mọi mặt không, và nhất là xem toàn thể
loài người có được hưởng lợi do các quy định đó đem lại không;
b) Xem trong thời
hạn 15 năm này, các khu vực dành riêng có được khai thác một cách có hiệu quả
và cân đối so với các khu vực không được dành riêng không;
c) Xem việc khai
thác và sử dụng Vùng và các tài nguyên của Vùng có được tiến hành theo cách tạo
thuận lợi cho việc phát triển hài hòa của nền kinh tế thế giới và việc mở rộng
cân đối nền thương mại quốc tế không;
d) Xem sự độc
quyền hóa các hoạt động tiến hành trong Vùng được ngăn ngừa hay không;
e) Xem xét các
chính sách đã nêu ở các Điều 150 và 151 có được tuân thủ không; và
f) Hệ thống có cho
phép phân chia một cách công bằng những mối lợi thu được từ các hoạt động tiến
hành trong Vùng, với sự quan tâm đặc biệt đến lợi ích và nhu cầu của các quốc
gia đang phát triển không.
2. Hội nghị xét
duyệt quan tâm đến việc giữ vững nguyên tắc di sản chung của loài người, chế độ
quốc tế nhằm khai thác công bằng di sản đó vì lợi ích của tất cả các quốc gia,
đặc biệt là các quốc gia đang phát triển, và sự tồn tại của một Cơ quan quyền
lực có trách nhiệm tổ chức tiến hành và kiểm soát các hoạt động trong vùng. Hội
nghị cũng quan tâm đến việc duy trì các nguyên tắc đã được nêu trong phần này
có liên quan đến việc loại trừ mọi yêu sách và mọi sự thực hiện chủ quyền ở một
khu vực nào đó của Vùng, đến các quyền của các quốc gia và thái độ chung của họ
có quan hệ đến Vùng, cũng như việc tham gia của họ vào các hoạt động được tiến
hành trong Vùng theo đúng Công ước, đến việc độc quyền hóa các hoạt động tiến
hành trong Vùng, việc chỉ sử dụng Vùng vào những mục đích hòa bình, những
phương diện kinh tế của các hoạt động tiến hành trong Vùng, việc nghiên cứu
khoa học biển, việc chuyển giao kỹ thuật, việc bảo vệ môi trường biển, và bảo
vệ sự sống của con người, các quyền của các quốc gia ven biển, chế độ pháp lý
của vùng nước và vùng trời phía trên Vùng và sự phù hợp giữa các hoạt động tiến
hành trong Vùng và các hoạt động khác trong môi trường biển.
3. Thủ tục ra
quyết định áp dụng trong Hội nghị cũng là thủ tục đã áp dụng ở Hội nghị về luật
biển lần thứ ba của Liên hợp quốc. Hội nghị sẽ cố gắng hết sức để đi đến thỏa
thuận về tất cả các điểm sửa đổi nếu có, bằng consensus (thỏa thuận), và chỉ
biểu quyết các vấn đề đó, sau khi đã cố gắng hết sức mà không đi đến consensus
(thỏa thuận).
4. Năm năm sau khi
bắt đầu hội nghị xét duyệt lại, nếu không đi đến được thỏa thuận về hệ thống
thăm dò và khai thác tài nguyên của Vùng thì trong vòng 12 tháng sau đó, Hội
nghị có thể quyết định theo đa số ba phần tư các quốc gia thành viên thông qua
và đưa ra cho các quốc gia thành viên phê chuẩn hay tham gia đối với những điều
sửa đổi dẫn đến sự thay đổi hay sửa đổi hệ thống, mà Hội nghị xét thấy cần
thiết và thích hợp. Những điều sửa đổi này sẽ có hiệu lực đối với tất cả các
quốc gia thành viên 12 tháng sau ngày gửi lưu chiểu những văn kiện phê chuẩn
hay tham gia ba phần tư quốc gia thành viên.
5. Những điểm sửa
đổi được hội nghị xét duyệt lại thông qua điều này, sẽ không đụng chạm đến các
quyền đã có được theo các hợp đồng hiện hành.
Mục
4
CƠ
QUAN QUYỀN LỰC
TIỂU
MỤC A
NHỮNG
QUY ĐỊNH CHUNG
ĐIÊU 156. Thành
lập Cơ quan quyền lực
1. Một Cơ quan
quyền lực quốc tế về đáy biển được lập ra, hoạt động theo sự điều chỉnh của
phần này.
2. Tất cả các quốc
gia thành viên là những thành viên ipso facto (tất nhiên) của Cơ quan quyền
lực.
3. Các quan sát
viên ở Hội nghị lần thứ 3 của Liên hợp quốc về luật biển đã ký vào Định ước
cuối cùng và không nằm trong phạm vi Điều 305, khoản 1, điểm c, d, e hay f có
quyền tham dự vào các công việc của Cơ quan quyền lực với tư cách quan sát viên
theo đúng các quy tắc, quy định và thủ tục của Cơ quan quyền lực.
4. Cơ quan quyền
lực đặt trụ sở ở Gia-mai-ca.
5. Cơ quan quyền
lực có thể lập ra các trung tâm hay các cơ quan chỉ đạo khu vực xét thấy cần
thiết để thi hành chức năng của mình.
ĐIỀU 157. Tính
chất của Cơ quan quyền lực và các nguyên tắc cơ bản điều chỉnh hoạt động của cơ
quan này
1. Cơ quan quyền
lực là tổ chức mà qua đó, các quốc gia thành viên tổ chức và kiểm soát các hoạt
động tiến hành trong Vùng, đặc biệt là nhằm mục đích quản lý các tài nguyên của
Vùng theo đúng phần này.
2. Cơ quan quyền
lực nắm các quyền hạn và chức năng Công ước giao phó một cách rõ ràng. Cơ quan
quyền lực có những quyền hạn và chức năng nói trên đối với những hoạt động tiến
hành trong Vùng.
3. Cơ quan quyền
lực được thành lập trên nguyên tắc bình đẳng về chủ quyền của tất cả các thành
viên.
4. Để bảo đảm cho
mỗi thành viên các quyền và lợi ích do tư cách thành viên mà có, tất cả các
thành viên của Cơ quan quyền lực phải làm tròn một cách trung thực những nghĩa
vụ của họ theo phần này.
ĐIỀU 158. Các
cơ quan của Cơ quan quyền lực
1. Một đại hội
đồng, một Hội đồng và một Ban thư ký được lập ra là những cơ quan chính của Cơ
quan quyền lực.
2. Một Xí nghiệp
được lập ra là cơ quan mà thông qua đó, cơ quan quyền lực thi hành các chức
năng được nêu ở Điều 170, khoản 1.
3. Các cơ quan phụ
trợ được coi là cần thiết có thể được thành lập theo đúng phần này.
4. Mỗi cơ quan
chính của Cơ quan quyền lực và Xí nghiệp có nhiệm vụ thi hành những quyền hạn
và chức năng đã được giao phó. Trong khi thi hành các quyền hạn và chức năng
này, mỗi cơ quan tránh những hành động có thể đụng cham hoặc làm hại cho việc
thi hành các quyền hạn và chức năng riêng đã được giao phó cho một cơ quan
khác.
TIỂU
MỤC B
ĐẠI
HỘI ĐỒNG
ĐIỀU 159. Cơ
cấu, thủ tục và biểu quyết
1. Đại hội đồng
bao gồm tất cả các thành viên của Cơ quan quyền lực. Mỗi thành viên có một đại
diện ở Đại hội đồng, người này có thể có những người thay thế và cố vấn đi
theo.
2. Đại hội đồng
họp thường kỳ hàng năm, và họp bất thường theo quyết định của Đại hội đồng hay
do Tổng thư ký triệu tập theo yêu cầu của Hội đồng hay của đa số các thành viên
của Cơ quan quyền lực.
3. Các khóa họp
của Đại hội đồng được tiến hành tại trụ sở của Cơ quan quyền lực, trừ khi Đại
hội đồng có quyết định khác.
4. Đại hội đồng
thông qua quy chế nội bộ của mình. Mỗi khi khai mạc khóa họp thường kỳ, Đại hội
đồng bầu ra chủ tịch và số ủy viên cần thiết khác của cơ quan chỉ đạo. Những
người này lãnh trách nhiệm cho đến khi bầu cử một cơ quan chỉ đạo mối ở khóa
họp thường kỳ tiếp theo.
5. Số đại biểu cần
thiết (quorum) là đa số thành viên của Đại hội đồng.
6. Mỗi thành viên của
Đại hội đồng có một phiếu.
7. Các quyết định
về những vấn đề thủ tục kể cả việc triệu tập một khóa họp bất thường của Đại
hội đồng được thông qua theo đa số thành viên có mặt và bỏ phiếu.
8. Các quyết định
về các vấn đề nội dung phải được hai phần ba thành viên có mặt và bỏ phiếu
thông qua, với điều kiện là đa số này phải gồm đa số các thành viên tham dự
khóa họp. Trong trường hợp còn nghi ngờ không rõ có phải là một vấn đề nội dung
hay không, thì vấn đề bàn cãi đó được coi như là một vấn đề nội dung, trừ
trường hợp Cơ quan quyền lực có quyết định khác theo đa số cần thiết đối với
những quyết định về các vấn đề nội dung.
9. Khi một vấn đề
nội dung sắp được đem ra biểu quyết lần đầu thì Chủ tịch có thể hoãn và nếu có
ít nhất một phần năm số thành viên của Đại hội đồng yêu cầu, thì cần phải hoãn
việc biểu quyết về điểm này trong một thời hạn không được quá 5 ngày. Quy tắc
này chỉ có thể được áp dụng một lần đối với cùng một vấn đề, và việc áp dụng
quy tắc này không được làm cho vấn đề bị hoãn đến quá ngày kết thúc khóa họp.
10. Khi có ít nhất
một phần tư số thành viên của Đại hội đồng thỉnh cầu bằng một văn bản gửi lên
Chủ tịch Đại hội đồng, yêu cầu các Đại hội đồng lấy ý kiến tư vấn xem một đề
nghị đưa ra Đại hội đồng yêu cầu Viện giải quyết các tranh chấp liên quan đến
đáy biển của Tòa án quốc tế về luật biển có ý kiến tư vấn. Cuộc biểu quyết được
hoãn đến khi Viện phát biểu ý kiến. Nếu trước khi khóa họp kết thúc một tuần mà
chưa nhận được ý kiến tư vấn thì Đại hội đồng quyết định thời gian sẽ họp lại để
biểu quyết về đề nghị đã bị hoãn lại đó.
ĐIỀU 160. Các
quyền hạn và chức năng
1. Đại hội đồng,
cơ quan duy nhất bao gồm tất cả các thành viên của Cơ quan quyền lực, được coi
là cơ quan tối cao của Cơ quan quyền lực; Các cơ quan chính khác chịu trách nhiệm
trước nó, như đã được quy định rõ ràng trong Công ước; Đại hội đồng có quyền,
căn cứ vào các quy định tương ứng của Công ước quyết định chính sách chung của
Cơ quan quyền lực về bất kỳ vấn đề gì hay về bất kỳ việc gì thuộc thẩm quyền
của Cơ quan quyền lực.
2. Ngoài ra, Đại
hội đồng còn có các quyền hạn và chức năng sau đây:
a) Bầu ra các ủy
viên của Hội đồng theo đúng Điều 161;
b) Bầu ra Tổng thư
ký trong số các ứng cử viên do Hội đồng đề nghị;
c) Dựa vào giới
thiệu của Hội đồng, bầu ra các ủy viên của Hội đồng quản trị và Tổng giám đốc
Xí nghiệp;
d) Nếu cần, thì
thành lập các cơ quan phụ trợ để có thể làm tròn các chức năng của mình theo
đúng phần này. Về cơ cấu của các cơ quan phụ trợ này cần phải chú ý thích đáng
đến nguyên tắc phân bổ công bằng theo địa lý về các thành viên, đến các lợi ích
riêng biệt và đến sự cần thiết bảo đảm cho các cơ quan này tuyển chọn được các
thành viên có trình độ và thông thạo trong những lĩnh vực mà họ đảm nhiệm;
e) Quy định phần
đóng góp của các thành viên vào ngân sách hành chính của Cơ quan quyền lực theo
một ba-rem đã được sử dụng cho ngân sách thông thường của Liên hợp quốc, cho
đến khi Cơ quan quyền lực có được các khoản thu nhập lấy từ các nguồn khác đủ
để trang trải các chi phí hành chính của mình;
f) i. Dựa vào kiến
nghị của Hội đồng, xem xét và phê chuẩn các quy tắc, quy định và thủ tục liên
quan đến việc phân chia công bằng từ các mối lợi về tài chính và các mối lợi về
kinh tế khác thu được từ những hoạt động tiến hành trong Vùng cũng như những
đóng góp được trù định ở Điều 82, có quan tâm đặc biệt đến các quyền lợi và nhu
cầu của các nước đang phát triển và các dân tộc chưa giành được độc lập hoàn
toàn hay chưa được hưởng một chế độ tự trị khác. Nếu đại hội đồng không tán
thành các kiến nghị của Hội đồng, thì gửi trả lại các kiến nghị đó cho Hội đồng
đề Hội đồng xem xét lại dưới ánh sáng các quan điểm mà Đại hội đồng đã nêu ra;
ii. Xem xét và phê
chuẩn các quy tắc, qui định và thủ tục của Cơ quan quyền lực, cũng như tất cả
những điều sửa đổi đối với văn bản này, mà Hội đồng đã tạm thời chấp nhận theo
Điều 162, khoản 2, điểm c, ii. Các quy tắc, quy định và thủ tục này nhằm vào
việc thăm dò, khảo sát và khai thác trong Vùng, vào vấn đề quản lý tài chính và
vấn đề hành chính nội bộ của Cơ quan quyền lực và, trên cơ sở kiến nghị của Hội
đồng quản trị của Xí nghiệp, vào vấn đề chuyển khoản của Xí nghiệp sang cho Cơ
quan quyền lực;
g) Quyết định việc
phân chia công bằng các mối lợi về tài chính và các mối lợi về kinh tế khác có
được từ các hoạt động tiến hành trong Vùng, một cách phù hợp với Công ước và
các quy định và thủ tục của Cơ quan quyền lực;
h) Xem xét và phê
chuẩn dự trù ngân sách hàng năm của Cơ quan quyền lực mà Hội đồng đã đệ trình
lên;
i) Xem xét và báo
cáo định kỳ của Hội đồng và của Xí nghiệp, cũng như các báo cáo đặc biệt mà Đại
hội đồng yêu cầu Hội đồng và bất kỳ cơ quan nào của Cơ quan quyền lực trình
lên;
j) Cho tiến hành
các cuộc nghiên cứu và soạn thảo các kiến nghị nhằm đẩy mạnh hợp tác quốc tế
liên quan đến các hoạt động tiến hành trong vùng, và khuyến khích sự phát triển
pháp luật quốc tế theo hướng tiến bọ và pháp điển hóa bước phát triển đó;
k) Xem xét những
vấn đề có tính chất chung có liên quan đến các hoạt động tiến hành trong Vùng,
đặc biệt là những vấn đề nảy sinh đối với các quốc gia đang phát triển, cũng
như đối với những vấn đề mà các hoạt động này đặt ra đối với một số quốc gia,
do vị trí địa lý của họ, nhất là các quốc gia không có biển và các quốc gia có
hoàn cảnh địa lý bất lợi;
l) Theo kiến nghị
của Hội đồng, dựa vào ý kiến của Ủy ban kế hoạch hóa kinh tế, lập ra một chế độ
bù trừ hay thi hành các biện pháp giúp đỡ khác nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho
việc điều chỉnh kinh tế như đã trù định trong Điều 151, khoản 10;
m) Tuyên bố đình chỉ các quyền và các đặc quyền gắn liền với tư cách
thành viên theo Điều 185;
n) Thảo luận bất
kỳ vấn đề gì hay việc gì thuộc thẩm quyền của Cơ quan quyền lực và quyết định
một cách phù hợp với việc phân chia các quyền và chức năng giữa các cơ quan
quyền lực xem cơ quan nào sẽ giải quyết một vấn đề gì hay một việc gì chưa được
giao dứt khoát cho các cơ quan đó.
TIỂU
MỤC C
HỘI
ĐỒNG
ĐIỀU 161. Cơ
cấu, thủ tục và bỏ phiếu
1. Hội đồng gồm 36
ủy viên của Cơ quan quyền lực do Đại hội đồng bầu ra theo thứ tự như sau:
a) Bốn ủy viên
được lựa chọn trong số các quốc gia thành viên mà việc tiêu thụ hay nhập khẩu
thuần túy các sản phẩm cơ bản thuộc các loại khoáng sản được khai thác trong
vùng vượt quá 2% mức tiêu thụ hay mức nhập khẩu của thế giới về các sản phẩm đó
trong khoảng thời gian 5 năm lại đây có số liệu thống kê; trong số 4 ủy viên
này, ít nhất phải có một quốc gia thuộc khu vực Đông Âu (xã hội chủ nghĩa) cũng
như quốc gia tiêu thụ lớn nhất;
b) Bốn ủy viên
được lựa chọn trong số tám quốc gia thành viên; những quốc gia này, trực tiếp
hoặc qua trung gian của các công dân nước mình, đã được thực hiện những khoản
đầu tư quan trọng nhất cho việc chuẩn bị và thực hiện những khoản đầu tư quan
trọng nhất cho việc chuẩn bị và thực hiện các hoạt động tiến hành trong Vùng;
trong số bốn ủy viên này, ít nhất phải có một số quốc gia thuộc khu vực Đông Âu
(xã hội chủ nghĩa);
c) Bốn ủy viên
được lựa chọn trong số tám quốc gia thành viên; những quốc gia này, trực tiếp
hoặc qua trung gian của các công dân nước mình, đã thực hiện những khoản đầu tư
quan trọng nhất cho việc chuẩn bị và thực hiện các hoạt động tiến hành trong
Vùng; trong số bốn ủy viên này, ít nhất phải có hai quốc gia đang phát triển mà
nền kinh tế bị lệ thuộc nặng nề vào việc xuất khẩu các khoáng sản này;
d) Sáu ủy viên
được lựa chọn trong số các quốc gia thành viên đang phát triển và đại diện cho
những lợi ích đặc biệt. Những lợi ích đặc biệt phải được đại diện bao gồm những
lợi ích của các quốc gia có dân số đông, của các quốc gia không có viển hay ở
vào hoàn cảnh địa lý bất lợi, của các quốc gia trong số các quốc gia nhập khẩu
chủ yếu các loại khoáng sản sẽ được khai thác trong Vùng, của các quốc gia có
tiềm năng sản xuất các khoáng sản đó và của các quốc gia kém phát triển nhất;
e) Mười tám ủy
viên được bầu theo nguyên tắc phân bổ công bằng theo địa lý đối với toàn bộ số
thành viên của Hội đồng; tất nhiên là theo quy định này, cứ mỗi vùng địa lý có
ít nhất là một quốc gia được bầu làm ủy viên. Các khu vực địa lý nói ở đây là
Châu Phi, châu Mỹ la – tinh, châu Á, Đông Âu (xã hội chủ nghĩa), cũng như Tây
Âu và các quốc gia khác.
2. Khi bầu các ủy
viên của Hội đồng theo đúng khoản 1, Đại hội đồng phải chú ý đến:
a) Đại diện của
các quốc gia không có biển và của các quốc gia có hoàn cảnh địa lý bất lợi
tương ứng một cách hợp lý với sự đại diện của họ tại Đại hội đồng;
b) Đại diện của
các quốc gia ven biển, đặc biệt là các quốc gia đang phát triển, không có đầy
đủ các điều kiện đã nêu ở khoản 1, điểm a, b, c hay d, tương ứng một cách hợp
lý với sự đại diện của họ ở Đại hội đồng;
c) Mỗi nhóm quốc
gia thành viên được có đại diện ở Hội đồng sẽ do các ủy viên được nhóm đó chỉ
định, tùy theo tình hình làm đại diện.
3. Các cuộc bầu cử
được tiến hành trong một khóa họp thường lệ của Đại hội đồng. Mỗi một ủy viên
của Hội đồng được bầu với nhiệm kỳ là bốn năm. Tuy nhiên, trong cuộc bầu cử các
ủy viên của Hội đồng lần đầu, một nữa số ủy viên đại diện cho mỗi nhóm nước nói
ở khoản 1 có nhiệm kỳ là 2 năm.
4. Các ủy viên của
Hội đồng có thể được tái cử, nhưng cần phải chú ý thích đang đến việc bảo đảm
sự luân phiên của các ủy viên.
5. Hội đồng thi
hành chức trách của mình ở trụ sở của Cơ quan quyền lực; Hội đồng nhóm họp theo
yêu cầu hoạt động của Cơ quan quyền lực và, trong bất kỳ trường hợp nào, cũng
bảo đảm mỗi năm họp ba lần.
6. Số đại biểu cần
thiết (quorum) là đa số ủy viên của Hội đồng.
7. Mỗi ủy viên của
Hội đồng có một phiếu.
8. a) Các quyết
định về các vấn đề thủ tục được thực hiện theo đa số các ủy viên có mặt và bỏ
phiếu.
b) Các quyết định
về những vấn đề nội dung được đề ra liên quan đến Điều 162, khoản 2, điểm f, g,
h, I, n, p, v và Điều 191, được thông qua theo đa số hai phần ba các ủy viên có
mặt và bỏ phiếu, với điều kiện là đa số này phải bao gồm đa số các ủy viên của
Hội đồng;
c) Các quyết định
về những vấn đề nội dung được đặt ra liên quan đến các điều quy định liệt kê
sau đây phải được đa số ba phần tư các ủy viên có mặt và tham gia bỏ phiếu
thông qua, với điều kiện là đa số này phải bao gồm đa số các ủy viên của Hội
đồng: Điều 162, khoản 1; Điều 162, khoản 2, điểm a, b, c, d, e, l, q, r, s, t;
Điều 162, khoản 2, điểm u, trong những trường hợp một người ký hợp đồng hay
quốc gia bảo trợ người đó không thực hiện hợp đồng; Điều 162, khoản 2, điểm w,
với điều kiện các lệnh được đưa ra theo điểm này chỉ có thể là bắt buộc quá 30
ngày, nếu nó được một quyết định phù hợp với điểm d, xác nhận; Điều 162 khoản 2
điểm x, y, z; Điều 163, khoản 2; Điều 174, khoản 3; Điều 11 của phụ lục IV;
d) Các quyết định
về những vấn đề nội dung được đặt ra liên quan đến Điều 162, khoản 2, điểm m và
o, cũng như về việc thông qua các điều sửa đổi đối với phần XI phải được thông
qua bằng consensus (thỏa thuận).
e) Theo điểm d, f
và g, thuật ngữ “consensus” (thỏa thuận) có nghĩa là không có bất kỳ ý kiến
phản đối chính thức nào. Trong 14 ngày tiếp sau một kiến nghị được trình lên
Hội đồng, Chủ tịch phải xem xét xem có ý kiến phản đối chính thức nào không.
Nếu Chủ tịch của Hội đồng nhận thấy rằng có một ý kiến có một ý kiến phản đối,
thì trong vòng ba ngày, Chủ tịch lập và triệu tập một ủy ban hòa giải, gồm
nhiều nhất là chín ủy viên của Hội đồng, dưới sự chủ tọa của bản thân Chủ tịch
nhằm loại bỏ những ý kiến bất đồng và dự thảo một đề nghị có thể được thông qua
bằng “consensus” (thỏa thuận). Ủy ban hòa giải nhanh chóng làm tròn nhiệm vụ
của mình và báo cáo lên Hội đồng trong vòng 14 ngày sau khi thành lập. Nếu ủy
ban không có khả năng đề xuất một đề nghị có thể được thông qua bằng
“consensus” (thỏa thuận) thì phải trình bày trong báo cáo của mình những lý do
của ý kiến đối lập với để nghị;
f) Các quyết định
về những vấn đề không được liệt kê ở trên mà Hội đồng có quyền hạn giải quyết
theo các quy tắc, quy định và thủ tục của đó, nếu không thì theo quy định của
khoản này, được ghi trong các quy tắc, quy định và thủ tục đó, nếu không thì
theo quy định được xác định bởi một quyết định của Hội đồng được thông qua bằng
consensus (thỏa thuận).
g) Trong trường
hợp còn chưa thật rõ một vấn đề có thuộc phạm vi của các điểm a, b, c hay d
không, thì vấn đề được coi như thuộc quy định đòi hỏi, tùy trường hợp, theo quy
định đòi hỏi, tùy từng trường hợp, theo đa số cao nhất hay bằng consensus (thỏa
thuận).
9. Hội đồng định
ra một thử tục cho phép một thành viên của Cơ quan quyền lực không có đại diện
ở Hội đồng được tham dự vào một cuộc họp của Hội đồng khi thành viên này có yêu
cầu được tham dự, hoặc khi Hội đồng xét một vấn đề có liên quan đặc biệt đến
thành viên này. Đại diện của thành viên này có thể tham gia vào các cuộc tranh
luận nhưng không được quyền bỏ phiếu.
ĐIỀU 162. Các
quyền hạn và chức năng
1. Hội đồng là cơ
quan chấp hành của Cơ quan quyền lực có quyền căn cứ vào Công ước và chính sách
chung do Đại hội đồng xác định, định ra các chính sách riêng mà Cơ quan quyền
lực phải theo đối với mọi vấn đề hay mọi việc thuộc thẩm quyền của mình.
2. Ngoài ra, Hội
đồng còn:
a) Giám sát và tổ
chức phối hợp việc áp dụng phần này đối với tất cả các vấn đề và các việc thuộc
thẩm quyền của Cơ quyền lực và lưu ý Đại hội đồng về những trường hợp không
tuân thủ;
b) Đề nghị lên Đại
hội đồng danh sách các ứng cử viên vào chức vụ Tổng thư ký;
c) Giới thiệu lên
Đại hội đồng các ứng cử viên vào các chức vụ ủy viên Hội đồng quản trị và Tổng
giám đốc xí nghiệp;
d) Tùy theo điều
kiện thích hợp, và có lưu ý đúng mức đến các đòi hỏi về tiết kiệm và kém hiệu
quả, lập ra các cơ quan phụ trợ xét thấy cần thiết để thi hành các chức năng
của mình theo đúng phần này. Đối với thành phần của các cơ quan này, cần nhấn
mạnh đến sự cần thiết là các ủy viên phải có trình độ và tinh thông trong những
lĩnh cực kỹ thuật mà các cơ quan đó phụ trách, nhưng phải tính đến các nguyên
tắc phân bổ công bằng theo địa lý và đến các lợi ích đặc biệt;
e) Thông qua quy
chế nội bộ của mình, đặc biệt là xác định cách thức chỉ định chủ tịch của Hội
đồng;
f) Thay mặt Cơ
quan quyền lực, ký kết các hiệp định với Liên hợp quốc và các tổ chức quốc tế
khác, trong phạm vi thẩm quyền của mình và với điều kiện được Đại hội đồng phê
chuẩn.
g) Xem xét các báo
cáo của xí nghiệp và chuyển các báo cáo đó lên Đại hội đồng có kèm theo các
kiến nghị của mình;
h) Trình Đại hội
đồng báo cáo hàng năm cũng như các báo cáo đặc biệt mà Đại hội đồng đòi hỏi;
i) Chỉ đạo xí
nghiệp theo đúng Điều 170;
j) Chuẩn y các kế
hoạch làm việc theo đúng Điều 6 của Phụ lục III. Hội đồng quyết định về từng kế
hoạch làm việc trong thời hạn 60 ngày sau ngày kế hoạch làm việc được Ủy ban
pháp lý và kỹ thuật trình lên trong một phiên họp Hội đồng theo đúng các thủ
tục sau đây:
- Khi Ủy ban đề
nghị chuẩn y một kế hoạch làm việc, thì kế hoạch này xem như được Hội đồng chấp
nhận, nếu không có ủy viên nào của Hội đồng gửi lên cho Chủ tịch, trong thời
hạn 14 ngày, một kháng nghị bằng văn bản rõ ràng viện dẫn việc không tuân thủ
các điều kiện ghi ở Điều 6 của Phụ lục III. Nếu một kháng như vậy được đưa ra,
thì thủ tục hòa giải được trù định ở Điều 161, khoản 8, điểm e, được áp dụng.
Nếu vào lúc kết thúc thủ tục đó mà vẫn còn tiếp thủ tục kháng nghị, thì kế
hoạch làm việc coi như được Hội đồng chuẩn y, trừ khi được Hội đồng bác bỏ kế
hoạch này bằng consensus (thỏa thuận), không kể quốc gia hay các quốc gia đưa
ra kế làm việc hay bảo trợ người đưa ra kế hoạch đó;
- Khi Ủy ban kiến
nghị bác bỏ một kế hoạch làm việc hay không đưa ra kiến nghị, Hội đồng có thể
chuẩn y kế hoạch làm việc theo đa số ba phần tư số ủy viên có mặt và tham gia
bỏ phiếu, với điều kiện là đa số này bao gồm đa số các ủy viên tham gia khóa
họp;
- Chuẩn y các kế
hoạch làm việc do Xí nghiệp đưa lên theo đúng Điều 12 Phụ lục IV, áp dụng
mutatis mutandis (với những sửa đổi cần thiết về chi tiết) các thủ tục nói ở
điểm j;
l) Thi hành việc
kiểm soát đối với những hoạt động tiến hành trong vùng theo đúng Điều 153,
khoản 4 và các quy tắc, quy định và thủ tục của Cơ quan quyền lực;
m) Dựa vào kiến
nghị của Ủy ban kế hoạch hóa kinh tế, theo đúng Điều 150, điểm h, định ra các
biện pháp cần thiết và thích hợp để bảo vệ các quốc gia đang phát triển khỏi bị
những tác động kinh tế bất lợi nói trong quy định đó;
n) Dựa vào ý kiến
của Ủy ban kế hoạch hóa kinh tế, làm các kiến nghị gửi lên Đại hội đồng về việc
lập chế độ bù trừ hay định ra các biện pháp giúp đỡ người khác nhằm tạo điều
kiện thuận lợi cho việc điều chỉnh kinh tế đã được trù định ở Điều 151, khoản
10;
o) i. Kiến nghị
lên Đại hội đồng những quy tắc, quy định và thủ tục về việc phân chia công bằng
những mối lợi về tài chính và những mối lợi kinh tế khác, thu được từ các hoạt
động tiến hành trong Vùng, cũng như về các khoản đóng góp được trù định ở Điều
82, đặc biệt lưu ý đến các lợi ích và nhu cầu của các quốc gia đang phát triển
và của các dân tộc chưa giành được độc lập hoàn toàn hay chưa được hưởng một
chế độ tự trị khác;
ii. Thông qua và
áp dụng tạm thời, trong khi chờ đợi Đại hội đồng chuẩn y, các quy tắc, quy định
và thủ tục của Cơ quan quyền lực và mọi điều sửa đổi đối với những văn bản này,
có lưu ý đến những kiến nghị của Ủy ban pháp lý và kỹ thuật hoặc của mọi cơ
quan cấp dưới có liên quan khác. Những quy tắc, quy định và thủ tục này đề cập
việc thăm dò, khảo sát và khai thác trong Vùng, cũng như việc quản lý tài chính
và hành chính nội bộ của quy tắc, quy định và thủ tục liên quan đến việc thăm
dò và khai thác các khối đa kim. Các quy tắc, quy định, thủ tục thăm dò và khai
thác mọi tài nguyên ngoài các khối đa kim được thông qua trong một thời hạn 3
năm kể từ ngày Cơ quan quyền lực nhận được đơn của một trong các ủy viên của
mình về vấn đề này. Các quy tắc, quy định và thủ tục đó có hiệu lực tạm thời
đến khi được Đại hội đồng chuẩn y hoặc đến khi được Hội đồng sửa đổi dưới ánh
sáng các quan điểm mà Đại hội đồng phát biểu;
p) Quan tâm đến
việc thanh toán tất cả các khoản tiền do Cơ quan quyền lực nợ hay phải trả cho
Cơ quan quyền lực, về các hoạt động được thực hiện theo đúng phần này;
q) Tiến hành lựa
chọn giữa những người yêu cầu cấp giấy phép sản xuất theo Điều 7 của Phụ lục
III, trong những trường hợp được trù định trong điều đó;
r) Đệ trình dự án
ngân sách hàng năm của Cơ quan quyền lực lên Đại hội đồng để được phê chuẩn;
s) Gửi các kiến
nghị lên Đại hội đồng về chính sách phải theo đối với mọi vấn đề hay mọi viện
thuộc thẩm quyền của Cơ quan quyền lực;
t) Gửi các kiến
nghị lên Đại hội đồng về việc đình chỉ thi hành các quyền và đặc quyền gắn liền
với tư cách ủy viên theo Điều 185;
u) Nhân danh Cơ
quan quyền lực giao cho Viện giải quyết các tranh chấp liên quan đến đáy biển
xét xử trong những trường hợp không tuân thủ;
v) Thông báo cho
Đại hội đồng quyết định của Viện giải quyết các tranh chấp liên quan đến đáy
biển đã được giao cho xét xử theo điểm u, và có những kiến nghị về các biện
pháp mà Hội đồng thấy cần thiết phải thi hành;
w) Trong trường
hợp khẩn cấp thì ra lệnh và tùy theo tình hình, kể cả lệnh đình chỉ hay thay
đổi các hoạt động, để đề phòng mọi thiệt hại nghiêm trọng có thể gây ra cho môi
trường biển vì các hoạt động tiến hành trong Vùng;
x) Không cho các
người ký kết hợp đồng hay xí nghiệp khai thác một số khu vực khi có những lý do
nghiêm túc để cho rằng điều đó sẽ dẫn đến hậu quả gây thiệt hại nghiêm trọng
cho môi trường biển;
y) Thành lập một
cơ quan phụ trợ chuyên trách việc dự thảo những quy tắc, thủ tục và quy định
tài chính có liên quan đến:
i. Việc quản lý
tài chính theo đúng các Điều 171 đến 175; và
ii. Các thể thức
tài chính được trù định trong Điều 134 và Điều 17, khoản 1, điểm c, của phụ lục
III;
z) Bố trí các bộ
máy thích hợp để điều khiển và giám sát một đoàn thanh tra làm nhiệm vụ theo
dõi các hoạt động tiến hành trong Vùng để xác định xem phầm này, các quy tắc,
quy định và thủ tục của Cơ quan quyền lực và các điều kiện của các hợp đồng
được ký kết với Cơ quan quyền lực có được tuân thủ không.
ĐIỀU 163. Các
cơ quan của Hội đồng
1. Các cơ quan của
Hội đồng thành lập gồm có:
a) Một Ủy ban kế
hoạch hóa kinh tế;
b) Một Ủy ban pháp
lý và kỹ thuật.
2. Mỗi ủy ban gồm
15 ủy viên do Hội đồng bầu ra trong số các ứng cử viên do các quốc gia thành
viên giới thiệu. Tuy nhiên, nếu cần thiết, Hội đồng có thể quyết định mở rộng
các thành phần của Ủy ban này hay ủy ban kia, nhưng phải tính đến yêu cầu về
tiết kiệm và về hiệu quả.
3. Các ủy viên của
mỗi ủy ban phải có trình độ chuyên môn cần thiết trong những lĩnh vực thuộc
thẩm quyền của ủy ban. Để bảo đảm cho các ủy ban thực hiện chức năng có hiệu
quả, các quốc gia thành viên cử các ứng cử viên tinh thông nghiệp vụ nhất, có
trình độ chuyên môn cần thiết trong các lĩnh vực tương ứng.
4. Khi lựa chọn,
cần phải tính đến sự cần thiết phải phân bổ các thành viên công bằng theo địa
lý và đại diện được cho các lợi ích đặc biệt.
5. Không một quốc
gia thành viên nào có thể giới thiệu quá một ứng cử viên vào cùng một ủy ban.
Không ai có thể được bầu vào quá một ủy ban.
6. Các ủy viên của
ủy ban được bầu với nhiệm kỳ là 5 năm. Họ có thể được bầu lại một nhiệm kỳ mới.
7. Trong trường
hợp một ủy viên của một ủy ban bị chết, bất lực hay từ chức trước khi hết nhiệm
kỳ, thì Hội đồng bầu một ủy viên của cùng khu vực địa lý hay đại diện cho cùng
loại lợi ích để tiêp tục hoàn thành nhiệm kỳ của ủy viên trước.
8. Các ủy viên của
các ủy ban không được có lợi ích tài chính trong bất kỳ hoạt động nào liên quan
đến việc thăm dò và khai thác ở Vùng. Với các trách nhiệm của họ đối với ủy ban
mà họ là ủy viên, họ không được phép tiết lộ một bí mật công nghiệp nào hay số
liệu nào thuộc sở hữu công nghiệp đã được chuyển giao cho Cơ quan quyền lực
theo Điều 14 của Phụ lục III, cũng không được tiết lộ các tin tức bí mật mà họ
biết được do chức trách của họ ngay cả sau khi họ đã thôi việc cũng vậy.
9. Mỗi ủy ban phải
làm tròn chức năng của mình theo đúng các nguyên tắc và các chỉ thị do Hội đồng
quyết định.
10. Mỗi ủy ban
soạn thảo và trình lên Hội đồng thông qua các quy tắc và quy định cần thiết để
ủy ban hoạt động được tốt.
11. Các thủ tục ra
quyết định của các ủy ban do các quy tắc, quy định và các thủ tục của cơ quan
quyền lực quy định. Nếu có thể được thì những kiến nghị gửi lên Hội đồng phải
kèm theo một bản trình bày tóm tắt những ý kiến khác nhau trong ủy ban.
12. Bình thường,
các ủy ban làm việc ở trụ sở của Cơ quan quyền lực và phải nhóm họp theo sự cần
thiết để hoàn thành chức năng của mình một cách có hiệu quả.
13. Trong việc thi
hành chức năng của mình, nếu có thể được thì mỗi ủy ban tham khảo ý kiến của ủy
ban khác hay mọi cơ quan có thẩm quyền của Liên hợp quốc và của các cơ quan
chuyên môn của Liên hợp quốc hoặc mọi tổ chức quốc tế có thẩm quyền trong lĩnh
vực xem xét.
ĐIỀU 164. Ủy
ban kế hoạch hóa kinh tế
1. Các ủy viên của
ủy ban kế hoạch hóa kinh tế cần có trình độ nghiệp vụ cần thiết, nhất là về mặt
khai thác mỏ, quản lý các tài nguyên khoáng sản, thương mại quốc tế và về kinh
tế quốc tế. Hội đồng cố gắng bảo đảm cho Ủy ban, qua thành phần của mình, có
trình độ nghiệp vụ cần thiết một cách đồng bộ. Trong số ủy viên của Ủy ban phải
có ít nhất hai công dân của quốc gia đang phát triển mà nền kinh tế phụ thuộc
nặng nề vào việc xuất khẩu các loại khoáng sản trong Vùng.
2. Ủy ban có nhiệm
vụ:
a) Theo yêu cầu
của Hội đồng, đề xuất các biện pháp thực hiện các quyết định được thông qua
theo đúng Công ước có liên quan đến các hoạt động tiến hành trong Vùng;
b) Nghiên cứu các
xu hướng của cung, cầu và giá cả của các khoáng sản có thể lấy từ Vùng, cũng
như các nhân tố có tác động đến các dữ kiện này, có lưu ý đến các lợi ích của
các nước nhập khẩu, cũng như của các nước xuất khẩu, đặc biệt là các quốc gia
đang phát triển trong số các nước đó;
c) Xem xét mọi
tình huống có thể gây ra những ảnh hưởng bất lợi đã đề cập ở Điều 150, điểm h,
do quốc gia thành viên hay các quốc gia thành viên hữu quan đã lưu ý Ủy ban và
gửi các kiến nghị thích hợp lên Hội đồng;
d) Đề xuất với Hội
đồng để đệ trình lên Đại hội đồng, như được trù định trong Điều 151, khoản 10,
một chế độ bù trừ có lợi cho các nước đang phát triển mà các hoạt động tiến
hành trong Vùng đã gây nên những ảnh hưởng bất lợi hoặc là các biện pháp giúp
đỡ khác nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc điều chỉnh kinh tế, và gửi lên
Hội đồng những kiến nghị cần thiết để thực hiện, trong những trường hợp cụ thể,
chế độ bù trừ hay các biện pháp giúp đỡ đã được Đại hội đồng chấp nhận.
ĐIỀU 165. Ủy
ban pháp lý và kỹ thuật
1. Các ủy viên của
Ủy ban pháp lý và kỹ thuật phải có trình độ nghiệp vụ cần thiết, nhất là về mặt
thăm dò, khai thác và chế biến tài nguyên khoáng sản, về hải dương học và về
việc bảo vệ môi trường biển hoặc về những vấn đề kinh tế hay pháp lý liên quan
đến các hoạt động khai thác quặng ở biển hay trong những lĩnh vực có liên quan
khác. Hội đồng cố gắng bảo đảm cho Ủy ban qua thành phần của mình có trình độ
nghiệp vụ cần thiết một cách đồng bộ.
2. Ủy ban có nhiệm
vụ:
a) Theo yêu cầu
của Hội đồng, soạn thảo các kiến nghị lên Hội đồng về việc thi hành các chức
năng của Cơ quan quyền lực;
b) Xem xét các kế
hoạch làm việc chính thức và bằng văn bản có liên quan đến các hoạt động tiến
hành trong Vùng theo đúng Điều 153, khoản 3 và trình lên Hội đồng các kiến nghị
thích hợp. Ủy ban chỉ dựa vào những quy định trong Phụ lục III, để chuẩn bị các
kiến nghị và trình lên Hội đồng một báo cáo đầy đủ về các kiến nghị đó;
c) Theo yêu cầu
của Hội đồng, giám sát các hoạt động tiến hành trong Vùng, nếu có thể được, thì
hỏi ý kiến và hợp tác với mọi thực thể hay cá nhân tiến hành các hoạt động này
hay với quốc gia hay các quốc gia hữu quan, và làm báo cáo gửi lên Hội đồng;
d) Đánh giá những
tác động về sinh thái của các hoạt động đã tiến hành hoặc đang tiến hành trong
Vùng;
e) Làm các kiến
nghị gửi lên Hội đồng về việc bảo vệ môi trường biển, có chú ý đến các ý kiến
của các chuyên gia được thừa nhận;
f) Soạn thảo và đệ
trình lên Hội đồng các quy tắc, quy định và thủ tục nêu ở Điều 162, khoản 2,
điểm o, có tính đến tất cả các yếu tố thích hợp, kể các việc đánh giá những tác
động về sinh thái của các hoạt động tiến hành trong Vùng;
g) Qua từng thời
kỳ, xem xét lại những quy tắc, quy định và thủ tục này và kiến nghị lên Hội
đồng những điều sửa đổi mà mình xét thấy cần thiết hay nên làm;
h) Gửi các kiến
nghị lên Hội đồng liên quan đến việc bố trí một chương trình giám sát bao gồm
việc quan sát, đo đạc, đánh giá và phân tích định kỳ bằng những phương pháp
khoa học được thừa nhận đối với những nguy cơ hay ảnh hưởng của các hoạt động
tiến hành trong Vùng về mặt ô nhiễm môi trường biển, bảo đảm cho các quy định
hiện có được thích hợp và được tôn trọng, và việc phối hợp thực hiện chương
trình giám sát, một khi chương trình này được Hội đồng chuẩn y;
i) Kiến nghị lên
Hội đồng để Hội đồng nhân danh cơ quan quyền lực giao cho Viện giải quyết các
tranh chấp có liên quan đến đáy biển xét xử, đặc biệt lưu ý đến Điều 187, theo
đúng phần này và các phụ lục có liên quan đến phần này;
j) Trình lên Hội
đồng các kiến nghị về các biện pháp thi hành sau khi Viện giải quyết các tranh
chấp liên quan đến đáy biển được giao giải quyết theo điểm i đã ra quyết định;
k) Kiến nghị lên
Hội đồng để trong trường hợp khẩn cấp, Hội đồng ra lệnh, kể cả lệnh đình chỉ
hoặc sửa đổi các hoạt động nếu cần, nhằm phòng ngừa bất kỳ tổn thất nghiêm
trọng nào có thể gây ra cho môi trường biển do các hoạt động tiến hành trong
Vùng; Hội đồng ưu tiên xem xét các kiến nghị này;
l) Kiến nghị lên
Hội đồng không cho những người ký kết hợp đồng hay Xí nghiệp khai thác một số
khu vực khi có những lý do nghiêm túc để cho rằng điều đó sẽ dẫn đến nguy cơ
gây ra tổn thất nghiêm trọng cho môi trường biển; m) Gửi các kiến nghị đó lên
Hội đồng liên quan đến việc chỉ đạo và giám sát một đoàn thanh tra có nhiệm vụ
theo dõi các hoạt động tiến hành trong Vùng và có nhiệm vụ xác định xem phần
này, các quy tắc, quy định và thủ tục của Cơ quan quyền lực và các điều khoản,
điều kiện của mọi hợp đồng đã ký kết với Cơ quan quyền lực có được tuân thủ
không;
n) Tính toán sản
lượng tối đa và thay mặt Cơ quan quyền lực cấp giấy phép sản xuất theo Điều
151, từ khoản 2 đến khoản 7, một khi Hội đồng đã tiến hành sự lựa chọn cần
thiết, nếu như cần phải chọn, trong số những người yêu cầu cấp giấy phép sản
xuất theo đúng Điều 7 của Phụ lục III.
3. Theo yêu cầu
của mọi quốc gia thành viên mọi bên hữu quan khác, các ủy viên của Ủy ban, khi
thực hiện chức trách giám sát và thanh tra của mình phải cho một đại diện của
quốc gia hay của bên hữu quan này tham dự.
TIỂU
MỤC D
BAN
THƯ KÝ
ĐIỀU 166. Ban
thư ký
1. Ban thư ký của
Cơ quan quyền lực gồm có một Tổng thư ký và số nhân viên theo sự cần thiết của
Cơ quan quyền lực.
2. Tổng thư ký do
Đại hội đồng bầu ra trong số các ứng cử viên do Hội đồng đề nghị với nhiệm kỳ
là 4 năm và có thể được bầu lại.
3. Tổng thư ký là
viên chức cao nhất của Cơ quan quyền lực và hoạt động với tư cách này trong tất
cả các cuộc họp của Đại hội đồng và Hội đồng và của mọi cơ quan phụ trợ. Tổng
thư ký thực hiện mọi chức trách hành chính khác mà cơ quan này giao cho.
4. Tổng thư ký
trình lên Đại hội đồng một báo cáo hàng năm về hoạt động của Cơ quan quyền lực.
ĐIỀU 167. Nhân
viên của Cơ quan quyền lực
1. Nhân viên của
Cơ quan quyền lực bao gồm những người có trình độ nghiệp vụ trong các lĩnh vực
khác mà Cơ quan quyền lực cần để thi hành các chức năng quản lý của mình.
2. Căn cứ cao nhất
trong vấn đề tuyển lựa và xác định các điều kiện sử dụng nhân viên là bảo đảm
cho Cơ quan quyền lực có những nhân viên phục vụ có năng lực làm việc cao nhất,
tinh thông và liêm khiết nhất. Ngoài căn cứ này, phải tính đến tầm quan trọng
của việc tuyển lựa trên cơ sở địa lý càng rộng rãi càng tốt.
3. Nhân viên do
Tổng thư ký bổ nhiệm. Các điều kiện và thể thức bổ nhiệm, trả lương và thải hồi
phải phù hợp với các quy tắc, quy định và thủ tục của Cơ quan quyền lực.
ĐIỀU 168. Tính
chất quốc tế của Ban thư ký
1. Trong khi thực
hiện chức trách của mình, Tổng thư ký và nhân viên không được xin hay nhận chỉ
thị của bất kỳ một chính phủ nào hay một nguồn nào khác ngoài Cơ quan quyền
lực. Tổng thư ký và nhân viên tránh mọi hành vi không phù hợp với tư cách các
viên chức quốc tế và họ chỉ chịu trách nhiệm đối với Cơ quan quyền lực. Mỗi
quốc gia thành viên cam kết tôn trọng tính chất quốc tế thuần túy của các chức
trách của Tổng thư ký và nhân viên của Cơ quan quyền lực và cam kết không tìm
cách gây ảnh hưởng đến họ trong khi họ thi hành nhiệm vụ. Mọi hoạt động thiếu
trách nhiệm của một viên chức được đưa ra trước một tòa án hành chính được chỉ
định theo các quy tắc, quy định và thủ tục của Cơ quan quyền lực.
2. Tổng thư ký và
nhân viên không được có những lợi lộc tài chính trong một hoạt động nào liên
quan đến việc thăm dò và khai thác tiến hành trong Vùng. Với các trách nhiệm
của họ đối với Cơ quan quyền lực, họ không được tiết lộ một bí mật nào, một số
liệu nào thuộc sở hữu công nghiệp và đã được chuyển giao cho Cơ quan quyền lực
theo Điều 14, Phụ lục III và một thông tin mật nào khác mà họ biết do các chức
trách của họ ngay cả sau khi đã thôi việc cũng vậy.
3. Nếu một viên
chức của Cơ quan quyền lực có những thiếu sót đối với các nghĩa vụ nói ở khoản
2 thì, theo yêu cầu của một quốc gia thành viên bị thiệt hại sao thiếu sót đó,
hay theo yêu cầu của một tự nhiên nhân hay pháp nhân do một quốc gia thành viên
bảo trợ theo Điều 153, khoản 2, điểm b bị thiệt hại do thiếu sót này, Cơ quan
quyền lực sẽ truy tố viên chức này trước một tòa án được chỉ định theo các quy
tắc, quy định và thủ tục của Cơ quan quyền lực. Bên bị thiệt hại có quyền tham
gia vào việc tố tụng, nếu tòa án kiến nghị, Tổng thư ký phải thải hồi nhân viên
đó.
4. Các quy tắc,
quy định và thủ tục của Cơ quan quyền lực trù định các thể thức áp dụng điều
này.
ĐIỀU 169. Tham
khảo ý kiến và hợp tác với các tổ chức quốc tế và các tổ chức phi chính phủ
1. Đối với các vấn
đề thuộc thẩm quyền của Cơ quan quyền lực, Tổng thư ký, sau khi được Hội đồng
phê chuản, ký các thỏa thuận để tham khảo ý kiến và hợp tác với các tổ chức
quốc tế và các tổ chức phi chính phủ được Hội đồng kinh tế và xã hội của Liên
hợp quốc thừa nhận.
2. Bất kỳ tổ chức
nào mà Tổng thư ký đã ký với họ một thỏa thuận theo khoản 1 đều có thể chỉ định
các đại diện tham dự với tư cách là quan sát viên vào các hội nghị của các cơ
quan thuộc Cơ quan quyền lực, theo đúng quy chế nội bộ của các cơ quan này. Các
thủ tục được định ra để cho các tổ chức đó trình bày quan điểm của họ trong
những trường hợp thích hợp.
3. Tổng thư ký có
thể phân phát cho các quốc gia thành viên các báo cáo bằng văn bản của các tổ
chức phi chính phủ nói ở khoản 1 về các vấn đề thuộc thẩm quyền riêng của họ và
có liên quan đến công việc của Cơ quan quyền lực.
TIỂU
MỤC E
XÍ
NGHIỆP
ĐIỀU 170. Xí
nghiệp
1. Xí nghiệp là cơ
quan của Cơ quan quyền lực trực tiếp tiến hành các hoạt động trong Vùng theo
Điều 153, khoản 2, điểm a, cũng như các hoạt động vận chuyển, chế biến và buôn
bán các khoáng sản được khai thác trong Vùng.
2. Trong khuôn khổ
của Cơ quan quyền lực là pháp nhân quốc tế, Xí nghiệp có tư cách pháp nhân được
trù định trong Phụ lục IV. Xí nghiệp hoạt động theo đúng Công ước và các quy
tắc, quy định và thủ tục của Cơ quan quyền lực, cũng như theo đúng chính sách
chung do Đại hội đồng quyết định, và Xí nghiệp tuân theo các chỉ thị của Hội
đồng và chịu sự kiểm soát của cơ quan này.
3. Xí nghiệp có cơ
quan chính đóng tại trụ sở của Cơ quan quyền lực.
4. Theo đúng Điều
173, khoản 2 và Điều 11 của Phụ lục IV, Xí nghiệp có những nguồn tài chính cần
thiết để thực hiện các chức năng của mình, và có các kỹ thuật đã được chuyển
giao theo Điều 144 và theo các quy định thích hợp khác của Công ước.
TIỂU
MỤC F
TỔ
CHỨC TÀI CHÍNH CỦA CƠ QUAN QUYỀN LỰC
ĐIỀU 171. Các
nguồn tài chính của Cơ quan quyền lực
Các nguồn tài
chính của Cơ quan quyền lực gồm có:
a) Các khoản đóng
góp của các thành viên của Cơ quan quyền lực được quy định theo đúng Điều 160,
khoản 2, điểm e;
b) Những thu nhập
mà Cơ quan quyền lực thu được, theo Điều 13 của Phụ lục III, từ các hoạt động
tiến hành trong Vùng;
c) Các khoản tiền
do Xí nghiệp chuyển khoản theo Điều 10 của Phụ lục IV;
d) Vốn đi vay theo
Điều 174;
e) Các khoản đóng
góp tự nguyện của các quốc gia thành viên hay của các nguồn khác; và
f) Các khoản nộp
vào một quỹ bù trừ theo đúng Điều 151, khoản 10 mà Ủy ban kế hoạch hóa kinh tế
phải kiến nghị các nguồn.
ĐIỀU 172. Ngân
sách hàng năm của Cơ quan quyền lực
Tổng thư ký lập dự
án ngân sách hàng năm của Cơ quan quyền lực và trình lên Hội đồng. Hội đồng xem
xét dự án đó và đệ trình lên Đại hội đồng với những kiến nghị của mình để Đại
hội đồng phê chuẩn theo Điều 160, khoản 2, điểm h.
ĐIỀU 173. Chi phí
của Cơ quan quyền lực
1. Những khoản
đóng góp nói ở Điều 171, điểm a được nộp vào một tài khoản đặc biệt và dùng để
trang trải các khoản cho hành chính của Cơ quan quyền lực cho đến khi Cơ quan
quyền lực có được các khoản thu từ các nguồn khác đủ để trang trải các khoản
chi này.
2. Các nguồn tài
chính của Cơ quan quyền lực trước tiên dùng để thanh toán những khoản chi hành
chính. Ngoài những khoản đóng góp nói ở Điều 171, điểm a, quỹ còn lại sau khi
thanh toán các chi phí hành chính có thể dùng, đặc biệt để:
a) Phân chia theo
đúng Điều 140 và Điều 160, khoản 2, điểm g;
b) Cấp cho Xí
nghiệp các nguồn vốn nói ở Điều 170, khoản 4;
c) Đền bù cho các
quốc gia đang phát triển theo đúng Điều 151 khoản 10 và với Điều 160, khoản 2,
điểm l.
ĐIỀU 174. Quyền
vay vốn của Cơ quan quyền lực
1. Cơ quan quyền
lực có quyền vay vốn.
2. Đại hội đồng ấn
định giới hạn của quyền này trong quy chế tài chính được thông qua theo Điều
160, khoản 2, điểm f.
3. Hội đồng thực
hiện quyền vay vốn này.
4. Các quốc gia
thành viên không chịu trách nhiệm về các khoản nợ của Cơ quan quyền lực.
ĐIỀU 175. Kiểm
tra tài chính hàng năm
Mỗi năm các báo
cáo sổ sách và tài khoản của Cơ quan quyền lực, kể cả các bản quyết toán tài
chính hàng năm được một kiểm soát viên độc lập do Đại hội đồng cử ra kiểm tra.
TIỂU
MỤC G
QUY
CHẾ PHÁP LÝ, CÁC ĐẶC QUYỀN VÀ QUYỀN MIỄN TRỪ
ĐIỀU 176. Quy
chế pháp lý
Cơ quan quyền lực
là pháp nhân quốc tế và có quyền về pháp lý cần thiết để thi hành chức năng và
đạt tới các mục đích của mình.
ĐIỀU 177. Các
đặc quyền và quyền miễn trừ
Để có thể thực
hiện các chức năng của mình, Cơ quan quyền lực được hưởng trên lãnh thổ của mỗi
quốc gia thành viên những đặc quyền và quyền miễn trừ được trù định trong tiểu
mục này. Những đặc quyền và quyền miễn trừ liên quan đến Xí nghiệp được trù
định ở Điều 13 của Phụ lục IV.
ĐIỀU 178. Quyền
miễn trừ về mặt tài phán và tịch thu tài sản
Cơ quan quyền lực
cũng như tài sản và của cải của mình đều được hưởng quyền miễn trừ về mặt tài
phán và tịch thu tài sản, trừ phạm vi mà Cơ quan quyền lực đã từ bỏ rõ ràng
quyền miễn trừ này trong một trường hợp đặc biệt.
ĐIỀU 179. Quyền
miễn trừ khám xét và miễn mọi hình thức sai áp khác
Những của cải và
tài sản của Cơ quan quyền lực, dù chúng nằm ở đâu và người giữ chúng là ai, đều
được miễn khám xét, trưng thu, tịch thu, tước đoạt và mọi hình thức sai áp khác
theo một biện pháp của cơ quan hành pháp hay lập pháp.
ĐIỀU 180. Quyền
miễn trừ mọi sự kiểm soát, hạn chế, quy định hay lệnh tạm hoãn nợ
Tài sản và của cải
của Cơ quan quyền lực được miễn mọi sự kiểm soát, hạn chế, quy định hay lệnh
tạm hoãn nợ nào.
ĐIỀU 181. Hồ sơ
và các thông tin chính thức của Cơ quan quyền lực
1. Hồ sơ của Cơ
quan quyền lực dù chúng được cất giữ ở đâu đều bất khả xâm phạm.
2. Các số liệu
thuộc sở hữu công nghiệp, các thông tin thuộc bí mật công nghiệp của Cơ quan
quyền lực và các thông tin tương tự, cũng như các hồ sơ về nhân sự không được
để trong các cơ quan lưu trữ đại chúng.
3. Đối với các
thông tin chính thức, mỗi quốc gia thành viên dành cho Cơ quan đối xử ít nhất
cũng thuận tiện như đối với các tổ chức quốc tế khác.
ĐIỀU 182. Các
đặc quyền và quyền miễn trừ đối với các nhân viên hoạt động trong khuôn khổ của
Cơ quan quyền lực
Đại biểu các quốc
gia thành viên tham dự các cuộc họp của Đại hội đồng, của Hội đồng hoặc của các
cơ quan của Đại hội đồng hay của Hội đồng, cũng như Tổng thư ký và nhân viên
của Cơ quan quyền lực, được hưởng trên lãnh thổ của mỗi quốc gia thành viên:
a) Quyền miễn trừ
về tài phán và tịch thu tài sản đối với các hành động của họ trong khi thi hành
các chức vụ của mình, trừ phạm vi quốc gia mà họ đại diện hoặc Cơ quan quyền
lực đã từ bỏ rõ ràng quyền miễn trừ này trong một trường hợp đặc biệt;
b) Các quyền miễn
trừ như các quyền đã được quốc gia mà trên lãnh thổ quốc gia đó họ có mặt, dành
cho các đại diện, công chức và nhân cấp tương đương của các quốc gia thành viên
khác về các điều kiện nhập cư, các thủ tục đăng ký người nước ngoài và các
nghĩa vụ phục vụ quốc gia, cũng như các điều kiện thuận tiện như thế liên quan
đến quy định về hối đoái và về di chuyển, trừ khi họ là công dân của quốc gia
hữu quan.
ĐIỀU 183. Miễn
thuế hay lệ phí và miễn thuế quan
1. Trong khi thi
hành chức năng của mình, Cơ quan quyền lực cùng với của cải, tài sản và thu
nhập của mình, cũng như những hoạt động và giao dịch được Công ước này cho
phép, đều được miễn mọi thứ thuế trực thu và các tài sản mà Cơ quan quyền lực
nhập khẩu hay xuất khẩu để sử dụng trong công vụ đều được miễn mọi thứ thuế
quan. Cơ quan quyền lực không thể yêu cầu miễn bất cứ khoản tiền phải trả nào
cho các dịch vụ mà họ được hưởng.
2. Đối với những
việc mua của cải hay trả tiền dịch vụ của Cơ quan quyền lực hay nhân danh Cơ
quan quyền lực có một giá trị lớn, cần thiết cho việc thực hiện chức năng của
Cơ quan quyền lực và nếu giá các loại tài sản đó hay giá dịch vụ đó bao gồm cả
thuế, lệ phí hay thuế quan, thì các quốc gia thành viên sẽ cố gắng hết sức thi
hành những biện pháp thích hợp để miễn hay hoàn lại các khoản thuế, lệ phí hay
thuế quan. Các của cải nhập khẩu hay mua theo chế độ miễn trừ được quy định ở
điều này không được bán, chuyển nhượng bằng cách nào khác trên lãnh thổ của
quốc gia thành viên đã cho phép miễn thuế, trừ khi việc đó được tiến hành theo
các điều kiện đã thỏa thuận với quốc gia thành viên này.
3. Các quốc gia
thành viên không được thu một loại thuế trực thu hay gián thu nào đánh vào tiền
lương, tiền thù lao hay vào các khoản tiền khác mà Cơ quan quyền lực trả cho
Tổng thư ký và cho các nhân viên của mình, cũng như cho các chuyên gia thực
hiện những nhiệm vụ do Cơ quan quyền lực giao, trừ khi họ là công dân của các
nước đó.
TIỂU
MỤC H
ĐÌNH
CHỈ VIỆC HƯỞNG CÁC QUYỀN VÀ ĐẶC QUYỀN CỦA CÁC THÀNH VIÊN
ĐIỀU 184. Đình
chỉ quyền bỏ phiếu
Trong việc thanh
toán các khoản đóng góp của mình cho Cơ quan quyền lực, một quốc gia thành viên
nộp chậm, thì không được tham gia vào các cuộc bỏ phiếu, nếu tổng số tiền còn
thiếu bằng hoặc cao hơn tổng số tiền phải đóng góp cho 2 năm tròn đã qua. Đại
hội đồng có thể cho phép thành viên này tham gia bỏ phiếu, nếu Đại hội đồng xét
thấy việc thiếu sót này là do những hoàn cảnh nằm ngoài ý muốn của họ.
ĐIỀU 185. Đình
chỉ việc hưởng các quyền và đặc quyền vốn có của các thành viên
1. Một quốc gia vi
phạm phần này một cách nghiêm trọng và kéo dài thì có thể bị Đại hội đồng, theo
kiến nghị của Hội đồng đình chỉ việc hưởng các quyền và đặc quyền vốn có của
thành viên.
2. Không một quyết
định nào có thể được thi hành theo khoản 1, chừng nào mà Viện giải quyết các
tranh chấp liên quan đến đáy biển không xác nhận rằng quốc gia thành viên hữu
quan đã vi phạm phần này một cách nghiêm trọng và kéo dài.
Mục
5
GIẢI
QUYẾT CÁC TRANH CHẤP VÀ Ý KIẾN TƯ VẤN
ĐIỀU 186. Viện
giải quyết các tranh chấp liên quan đến đáy biển của Tòa án quốc tế về luật
biển
Mục này, phần XV
và Phụ lục VI điều chỉnh quy chế của Viện giải quyết các tranh chấp liên quan
đến đáy biển và các cách thức mà Viện thi hành thẩm quyền của mình,
ĐIỀU 187. Thẩm
quyền của Viện giải quyết các tranh chấp liên quan đến đáy biển
Theo phần này và
các phụ lục có liên quan, Viện giải quyết các tranh chấp liên quan đến đáy biển
có thẩm quyền xét xử những loại tranh chấp về những hoạt động tiến hành trong
Vùng sau đây:
a) Các vụ tranh
chấp giữa các quốc gia thành viên liên quan đến việc giải thích hay áp dụng
phần này và các phụ lục có liên quan;
b) Các vụ tranh
chấp giữa một quốc gia thành viên và Cơ quan quyền lực liên quan đến:
i. Các hành động
hay thiếu sót của Cơ quan quyền lực hay của một quốc gia thành viên được viện
dẫn là đã vi phạm các quy định của phần này hay các phụ lục có liên quan hay
các quy tắc quy định hay thủ tục đã được Cơ quan quyền lực thông qua theo đúng
các quy định này; hoặc
ii. Các hành động
của Cơ quan quyền lực được viện dẫn là đã vượt quá thẩm quyền của mình hay đã
lạm quyền;
c) Các vụ tranh
chấp giữa các bên ký kết một hợp đồng, dù các bên này là các quốc gia thành
viên, là Cơ quan quyền lực hay Xí nghiệp, hay các xí nghiệp của Nhà nước hoặc
các tự nhiên nhân hay pháp nhân đã nêu ở Điều 153, khoản 2, điểm b, liên quan
đến:
i. Việc giải thích
hay thi hành một hợp đồng hay một kế hoạch làm việc; hoặc
ii. Các hành động
hay thiếu sót của một bên ký kết hợp đồng liên quan đến các hoạt động tiến hành
trong Vùng và làm ảnh hưởng đến bên khác hay trực tiếp gây tổn hại đến các lợi
ích chính đáng của các bên khác đó;
d) Các vụ tranh chấp
giữa Cơ quan quyền lực và một người yêu cầu được một quốc gia bảo trợ theo đúng
Điều 153, khoản 2, điểm b và đã thoản mãn các điều kiện được quy định ở Điều 4,
khoản 6 và Điều 13, khoản 2 của Phụ lục III, có liên quan đến việc từ chối ký
kết hợp đồng hay đến một vấn đề pháp lý nảy sinh trong khi thương lượng về hợp
đồng;
e) Các vụ tranh
chấp giữa Cơ quan quyền lực và một quốc gia thành viên, một xí nghiệp Nhà nước
hoặc một tự nhiên nhân hay pháp nhân do một quốc gia thành viên bảo trợ theo
đúng Điều 153, khoản 2, điểm b, khi thấy rằng, theo Điều 22 của Phụ lục III,
việc tranh chấp này có đụng đến trách nhiệm của Cơ quan quyền lực;
f) Bất kỳ tranh
chấp nào khác mà Công ước đã trù định rõ ràng Viện có thẩm quyền giải quyết.
ĐIỀU 188. Việc
đưa những vụ tranh chấp ra trước một Viện đặc biệt của Tòa án quốc tế về luật
biển hay ra trước một viện ad-hoc (đặc biệt) của Viện giải quyết các tranh chấp
liên quan đến đáy biển hay ra trước một trọng tài thương mại bắt buộc
1. Các vụ tranh
chấp giữa các quốc gia thành viên đề cập ở Điều 187, điểm a có thể được đưa ra
trước:
a) Một viện đặc
biệt của Tòa án quốc tế về luật biển được lập ra theo đúng các Điều 15 và 17
của Phụ lục VI, theo yêu cầu của các bên tranh chấp; hay
b) Một viện ad –
hoc (đặc biệt) của Viện giải quyết các tranh chấp liên quan đến đáy biển được
lập ra theo đúng Điều 36 của Phụ lục VI, theo yêu cầu của bất kỳ bên tranh chấp
nào.
2. a) Các vụ tranh
chấp liên quan đến việc giải thích hay áp dụng một hợp đồng nêu ở Điều 187,
điểm c điểm nhỏ i theo yêu cầu của bất kỳ bên tranh chấp nào, được đưa ra trước
trọng tài thương mại bắt buộc, trừ khi các bên tranh chấp có thỏa thuận khác,
Tòa trọng tài thương mại xét xử một vụ tranh chấp như thế không có thẩm quyền
phán xét về một điểm giải thích Công ước. Nếu vụ tranh chấp bao hàm một điểm
giải thích Phần XI và các phụ lục có liên quan, về các hoạt động tiến hành
trong Vùng thì điểm này phải được chuyển lên cho Viện giải quyết các tranh chấp
liên quan đến đáy biển quyết định.
b) Lúc khởi tố hay
trong quá trình tiến hành một thủ tục trọng tài như vậy, nếu như Tòa trọng tài
thương mại, theo yêu cầu của một trong những bên tranh chấp hoặc tự ý mình,
thấy rằng quyết định của mình phụ thuộc vào một quyết định của Viện giải quyết
các tranh chấp liên quan đến đáy biển, thì Tòa trọng tài này phải chuyển đổi
quan điểm này lên cho Viện nói trên quyết định. Sau đó, Tòa trọng tài sẽ ra
phán quyết theo đúng quyết định của Viện;
c) Nếu trong hợp
đồng thiếu một điều quy định về thủ tục trọng tài có thể áp dụng cho vụ tranh
chấp, thì công việc trọng tài được thực hiện theo quy chế trọng tài của CNUDCI
hay theo bất kỳ quy chế trngj tài nào khác có thể được trù định trong các quy
tắc, quy định và thủ tục của Cơ quan quyền lực, trừ khi các bên có thỏa thuận
khác.
ĐIỀU 189. Giới
hạn thẩm quyền liên quan đến các quyết định của Cơ quan quyền lực
Viện giải quyết
các tranh chấp liên quan đến đáy biển không có thẩm quyền phán xét đối với việc
Cơ quan quyền lực, theo đúng phần này, thi hành các quyền tùy ý quyết định của
mình; trong bất kỳ trường hợp nào, Viện này cũng không thể thay thế cho Cơ quan
quyền lực trong việc thi hành các quyền tùy ý quyết định nói trên. Không phương
hại đến Điều 191, khi thi hành thẩm quyền được thừa nhận theo Điều 187, Viện
giải quyết các tranh chấp liên quan đến đáy biển không được phán xét đối với
các vấn đề xem một quy tắc, quy định hay một thủ tục của Cơ quan quyền lực có
phù hợp với Công ước hay không và không thể tuyên bố quy tắc, quy định hay thủ
tục này là vô hiệu. Thẩm quyền của Viện chỉ giới hạn trong việc xác định xem
việc áp dụng quy tắc, quy định hay thủ tục của Cơ quan quyền lực trong những
trường hợp riêng biệt có ngược lại với những nghĩa vụ theo hợp đồng của các bên
tranh chấp hay với các nghĩa vụ của họ theo Công ước không và xét xử những
trường hợp kháng cáo về việc không đủ thẩm quyền hay lạm quyền, cũng như những
yêu cầu bồi thường thiệt hại và những yêu cầu đền bù khác do một trong các bên
kiện bên kia vì thiếu sót trong việc thi hành nghĩa vụ theo hợp đồng hay nghĩa
vụ của họ theo Công ước.
ĐIỀU 190. Sự
tham gia tố tụng và ra trước tòa của các quốc gia thành viên đã nhận bảo trợ
1. Quốc gia thành
viên bảo trợ cho một tự nhiên nhân hay pháp nhân tham gia vào một vụ tranh chấp
đã nêu ở Điều 187 được nhận thông báo về vụ tranh chấp và có quyền tham gia vào
trình tự tố tụng bằng cách trình bày những nhận xét bằng văn bản hay bằng lời.
2. Khi một vụ kiện
do một tự nhiên nhân hay pháp nhân được một quốc gia thành viên khác bảo trợ,
đệ đơn kiện một quốc gia thành viên về một vụ tranh chấp đã nêu ở Điều 187,
điểm c, thì quốc gia bị đơn có thể yêu cầu quốc gia bảo trợ ra trước tòa nhân
danh bên nguyên. Nếu không ra trước tòa được, thì quốc gia bị đơn có thể ủy
quyền cho một pháp nhân mang quốc tịch của mình thay mặt.
ĐIỀU 191. Ý
kiến tư vấn
Viện giải quyết
các tranh chấp liên quan đến đáy biển đưa ra các ý kiến tư vấn theo yêu cầu của
Đại hội đồng, hay Hội đồng về những vấn đề pháp lý được đặt ra trong những thời
hạn ngắn nhất.
PHẦN
XII. BẢO VỆ
VÀ GÌN GIỮ MÔI TRƯỜNG BIỂN
Mục
1
CÁC
QUY ĐỊNH CHUNG
ĐIỀU 192. Nghĩa
vụ chung
Các quốc gia có
nghĩa vụ bảo vệ và gìn giữ môi trường biển.
ĐIỀU 193. Quyền
thuộc chủ quyền của các quốc gia khai thác các tài nguyên thiên nhiên của mình
Các quốc gia có
quyền thuộc chủ quyền khai thác các tài nguyên thiên nhiên của mình theo chính
sách về môi trường của mình và theo đúng nghĩa vụ bảo vệ và gìn giữ môi trường
biển của mình.
ĐIỀU 194. Các
biện pháp nhằm ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm môi trường biển
1. Các quốc gia,
tùy theo tình hình, thi hành riêng rẽ hay phối hợp với nhau, tất cả các biện
pháp phù hợp với Công ước, cần thiết để ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm
môi trường biển, sử dụng các phương tiện thích hợp nhất mà mình có, và cố gắng
điều hòa các chính sách của mình về mặt này.
2. Các quốc gia
thi thành mọi biện pháp cần thiết để cho các hoạt động thuộc quyền tài phán hay
quyền kiểm soát của mình không gây tác hại do ô nhiễm cho các quốc gia khác và
cho môi trường của họ và để cho nạn ô nhiễm nảy sinh từ những tai nạn hay từ
các hoạt động thuộc quyền tài phán hay quyền kiểm soát của mình không lan ra
ngoài các khu vực mà mình thi hành các quyền thuộc chủ quyền theo đúng Công
ước.
3. Các biện pháp
được sử dụng để thi hành phần này cần phải nhằm vào tất cả các nguồn gây ra ô
nhiễm môi trường biển. Nhất là, chúng bao gồm những biện pháp nhằm hạn chế đến
mức cao nhất:
a. Việc thải bỏ từ
khí quyển xuống hay đi qua khí quyển do nhận chìm các chất độc có hại và độc
hại, đặc biệt là các chất không bị phân hủy từ các nguồn ở đất liền;
b. Ô nhiễm do các
tàu thuyền gây ra, đặc biệt là những biện pháp nhằm đề phòng các sự cố và đối
phó với các trường hợp khẩn cấp, nhằm đảm bảo an toàn cho các hoạt động trên
biển, ngăn ngừa những hành động thải bỏ, dù cố ý hay không, và quy định về cách
thiết kế, cấu trúc, trang bị và việc khai thác các tàu thuyền;
c. Ô nhiễm bắt
nguồn từ các thiết bị hay phương tiện được sử dụng để thăm dò hay khai thác các
tài nguyên thiên nhiên của đáy biển và lòng đất dưới đáy biển này, đặc biệt là
các biện pháp nhằm phòng ngừa các sự cố và đối phó với các trường hợp khẩn cấp,
đảm bảo an toàn cho các hoạt động trên biển, và quy định về cách thiết kế, cấu
trúc, trang bị và việc khai thác các thiết bị hay phương tiện này,và thành phần
nhân viên được sử dụng ở đó;
d. Ô nhiễm xuất
phát từ các thiết bị hay phương tiện khác hoạt động trong môi trường biển, đặt
biệt là những biện pháp nhằm phòng ngừa những sự cố và đối phó với các trường
hợp khẩn cấp, bảo đảm an toàn cho các hoạt động trên biển, và quy định về cách
thiết kế, cấu trúc, trang bị và khai thác các thiết bị hay phương tiện này,và
thành phần nhân viên được sử dụng ở đó.
4. Khi thi hành
các biện pháp phòng ngừa, hạn chế , hay chế ngự ô nhiễm môi trường biển, các
quốc gia tránh chấp cứ sự can thiệp vô lý nào vào các hoạt động của các quốc
gia khác đang thi hành các quyền hay đang thực hiện nghĩa vụ của họ theo đúng
Công ước.
5. Các biện pháp
được thi hành theo đúng phần này bao gồm các biện pháp cần thiết để bảo vệ và
gìn giữ các hệ thống sinh thái hiếm hoi hay mỏng manh cũng như điều kiện cư trú
của các loài và các sinh vật biển khác đang thoái hóa, có nguy cơ hay đang bị
hủy diệt.
ĐIỀU 195. Nghĩa
vụ không được đùn đẩy thiệt hại hay các nguy cơ và không được thay thế một kiểu
ô nhiễm này bằng một kiểu ô nhiễm khác
Khi thi hành các
biện pháp để ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm môi trường biển, các quốc
gia phải làm sao để không đùn đẩy, trực tiếp hay gián tiếp, thiệt hại hay các
nguy cơ từ vùng này sang vùng khác và không được thay thế một kiểu ô nhiễm này
bằng một kiểu ô nhiễm khác.
ĐIỀU 196. Sử
dụng các kỹ thuật hay du nhập các loài ngoại lai hoặc mới
1. Các quốc gia
thi hành mọi biện pháp cần thiết để ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm môi
trường biển từ việc sử dụng các kỹ thuật trong khuôn khổ quyền tài phán hay dưới
sự kiểm soát của mình, hoặc do du nhập cố ý hay vô tình vào một bộ phận môi
trường biển các ngoại lai hoặc mới có thể gây ra ở đó các thay đổi đáng kể và
có hại.
2. Điều này không
ảnh hưởng đến việc áp dụng các quy định của Công ước có liên quan đến các biện
pháp nhằm ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm môi trường biển.
Mục
2
HỢP
TÁC TRÊN PHẠM VI THẾ GIỚI VÀ KHU VỰC
ĐIỀU 197. Hợp
tác trên phạm vi thế giới hoặc khu vực
Các quốc gia hợp
tác trên phạm vi thế giới và nếu có thể thì trên phạm vi khu vực, trực tiếp hay
qua trung gian của các tổ chức quốc tế có thẩm quyền, trong việc hình thành và
soạn thảo các quy tắc và các quy phạm, cũng như các tập quán và thủ tục được
kiến nghị mang tính chất quốc tế phù hợp với Công ước, để bảo vệ và gìn giữ môi
trường biển, có tính đến các đặc điểm có tính chất khu vực.
ĐIỀU 198. Thông
báo về một nguy cơ gây thiệt hại sắp xảy ra hay thông báo về một thiệt hại thực
sự
Quốc gia nào biết
được trường biệt môi trường biển đang có nguy cơ sắp phải chịu những thiệt hại
hay đã chịu những thiệt hại do ô nhiễm thì phải lập tức thông báo cho các quốc
gia khác mà mình xét thấy có nguy cơ phải chịu những tổn thất này cũng như cho
các tổ chức quốc tế có thẩm quyền.
ĐIỀU 199. Kế
hoạch khẩn cấp chống ô nhiễm
Trong các trường
hợp đã nêu ở Điều 198, các quốc gia ở trong khu vực bị ảnh hưởng, theo khả năng
của mình, và các tổ chức quốc tế có thẩm quyền hợp tác với nhau đến mức cao
nhất nhằm loại trừ ảnh hưởng của ô nhiễm và nhằm ngăn ngừa và giảm đến mức tối
thiểu những thiệt hại. Nhằm mục đích này, các quốc gia cần cùng nhau soạn thảo
và xúc tiến các kế hoạch khẩn cấp để đối phó với những tai nạn gây ra ô nhiễm
môi trường biển.
ĐIỀU 200. Công
tác nghiên cứu, các chương trình nghiên cứu và trao đổi thông tin và các dữ
kiện
Trực tiếp hoặc qua
trung gian của các tổ chức quốc tế có thẩm quyền, các quốc gia hợp tác với nhau
nhằm đẩy mạnh công tác nghiên cứu, thực hiện các chương trình nghiên cứu khoa
học và khuyến khích việc trao đổi các thông tin và các dữ kiện về ô nhiễm môi
trường biển. Các quốc gia cố gắng tham gia tích cực vào các chương trình khu
vực và thế giới nhằm thu được những kiến thức cần thiết để xác định tính chất
và phạm vi ô nhiễm, đối tượng có nguy cơ bị ô nhiễm, những con đường mà nạn ô
nhiễm đi qua, những nguy hiểm mà nạn ô nhiễm chứa đựng và những phương thức
khắc phục có thể có.
ĐIỀU 201. Tiêu
chuẩn khoa học để soạn thảo các quy định
Lưu ý đến các
thông tin và các dữ kiện thu được trong khi áp dụng Điều 200, trực tiếp hoặc
qua trung gian của các tổ chức quốc tế có thẩm quyền, các quốc gia hợp tác với
nhau nhằm lập ra các tiêu chuẩn khoa học thích hợp để xây dựng và soạn thảo các
quy tắc và quy phạm, cũng như các tập quán và thủ tục được kiến nghị nhằm ngăn
ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm môi trường biển.
Mục
3
GIÚP
ĐỠ KỸ THUẬT
ĐIỀU 202. Giúp
đỡ cho các quốc gia đang phát triển trong các lĩnh vực khoa học và kỹ thuật
Trực tiếp hoặc qua
trung gian của các tổ chức quốc tế có thẩm quyền, các quốc gia cần:
a. Đẩy mạnh các
chương trình giúp đỡ cho các quốc gia đang phát triển trong các lĩnh vực khoa
học, giáo dục, kỹ thuật và trong các lĩnh vực khác nhằm bảo vệ và gìn giữ môi
trường biển và nhằm ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm biển. Sự giúp đỡ này
đặc biệt gồm có:
i. Đạo tạo nhân
viên khoa học và kỹ thuật của các quốc gia này;
ii. Tạo điều kiện
dễ dàng cho việc tham gia của các quốc gia này vào các chương trình quốc tế
thích hợp;
iii. Cung cấp cho
các quốc gia này cơ sở vật chất và những điều kiện thuận lợi cần thiết;
iv. Tăng cường khả
năng tự sản xuất cơ sở vật chất nói trên cho các quốc gia đó;
v. Giúp đỡ các ý
kiến tư vấn và phát triển các phương tiện vật chất liên quan đến các chương
trình nghiên cứu, các chương trình giám sát liên tục, chương trình giáo dục và
các chương trình khác;
b. Thực hiện sự
giúp đỡ thích hợp, đặc biệt là cho các quốc gia đang phát triển, để giúp các
quốc gia này giảm bớt đến mức tối thiểu những ảnh hưởng của các tai biến lớn có
nguy cơ gây ra một nạn ô nhiễm nghiêm trọng cho môi trường biển;
c. Thực hiện sự
giúp đỡ thích hợp, đặc biệt là cho các quốc gia đang phát triển, để xây dựng
các đánh giá về sinh thái học.
ĐIỀU 203. Việc
đối xử ưu tiên cho các quốc gia đang phát triển
Để ngăn ngừa, hạn
chế và chế ngự ô nhiễm môi trường biển hoặc để hạn chế đến mức tối thiểu các
ảnh hưởng của nó, các tổ chức quốc tế dành sự đối xử ưu tiên cho các quốc gia
đang phát triển về:
a. Việc trợ cấp
vốn và các phương tiện giúp đỡ kỹ thuật thích hợp; và
b. Việc sử dụng
các cơ sở chuyên môn của mình.
Mục
4
GIÁM
SÁT LIÊN TỤC VÀ ĐÁNH GIÁ VỀ SINH THÁI
ĐIỀU 204. Giám
sát liên tục các nguy cơ ô nhiễm và ảnh hưởng của ô nhiễm
1. Các quốc gia
cần cố gắng hết sức mình và phù hợp với các quyền của các quốc gia khác, trực
tiếp hoặc qua trung gian của các tổ chức quốc tế có thẩm quyền, để quan sát, đo
đạc, đánh giá và phân tích, bằng các phương pháp khoa học được thừa nhận, các
nguy cơ ô nhiễm môi trường biển hay những ảnh hưởng của vụ ô nhiễm này.
2. Đặc biệt, các
quốc gia phải thường xuyên giám sát những tác động của mọi hoạt động mà họ cho
phép hay họ tiến hành để xác định xem các hoạt động này có nguy cơ gây ra ô
nhiễm môi trường biển hay không.
ĐIỀU 205. Việc
công bố các báo cáo
Các quốc gia công
bố các báo cáo về kết quả thu được trong khi áp dụng Điều 204 hay, theo khoảng
thời gian thích hợp, cung cấp các báo cáo như vậy cho các tổ chức quốc tế có
thẩm quyền và các tổ chức quốc tế này cần phải để cho mọi quốc gia khác sử dụng
các báo cáo này.
ĐIỀU 206. Đánh
giá những tác dụng tiềm tàng của các hoạt động
Khi các quốc gia
có những lý do xác đáng để cho rằng các hoạt động đã dự tính thuộc quyền tài
phán hay quyền kiểm soát của mình có quy cơ gây ra một vụ ô nhiễm nghiêm trong
hay làm thay đổi đáng kể và có hại đối với môi trường biển, thì trong chừng mực
có thể, các quốc gia này cần đánh giá các tác động tiềm tàng cùa các hoạt động
này đối với môi trường đó và cần báo cáo lại những kết quả của những đánh giá
này theo cách đã được quy định ở Điều 205.
Mục
5
QUY
ĐỊNH QUỐC TẾ VÀ LUẬT TRONG NƯỚC NHẰM NGĂN NGỪA, HẠN CHẾ VÀ CHẾ NGỰ Ô NHIỄM MÔI
TRƯỜNG BIỂN
ĐIỀU 207. Ô nhiễm bắt nguồn từ
đất
1. Các quốc gia
thông qua các luật và quy định để ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm môi
trường có nguồn gốc từ đất, kể cà các ô nhiễm xuất phát từ các dòng sông, ngòi,
cửa sông, ống dẫn và các thiết bị thải đổ, có lưu ý đến các quy tắc và quy phạm
cũng như các tập quán và thủ tục được kiến nghị và chấp nhận trên phạm vi quốc
tế.
2. Các quốc gia
thi hành mọi biện pháp có thể cần thiết để ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự nạn ô
nhiễm này.
3. Các quốc gia có
cố gắng điều hòa các chính sách của mình về mặt này ở mức độ khu vực thích hợp.
4. Đặc biệt khi
hành động qua trung gian của các tổ chức quốc tế có thẩm quyền hay qua một hội
nghị ngoại giao, các quốc gia cố gắng thông qua các quy tắc và quy phạm, cũng
như các tập quán và thủ tục được kiến nghị trên phạm vi thế giới và khu vực để
ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự nạn ô nhiễm bắt nguồn từ đất đối với môi trường
biển, có tính đến các đặc điểm khu vực, đến khả năng kinh tế của các quốc gia
đang phát triển và các đòi hỏi về phát triển kinh tế của các quốc gia này. Các
quy tắc và quy phạm cũng như các những tập quán và thủ tục được kiến nghị này
tùy theo sự cần thiết mà qua từng thời kỳ, được xem xét lại.
5. Các luật, quy
chế và các biện pháp cũng như các quy tắc, quy phạm và các tập quán, thủ tục
được kiến nghị đã nêu ở khoản 1, 2 và 4, bao gồm những biện pháp nhằm hạn chế
đến hết mức việc trút vào môi trường biển các chất độc, có hại và độc hại, đặc
biệt là các chất không thể phân hủy được.
ĐIỀU 208. Ô
nhiễm do các hoạt động liên quan đến đáy biển thuộc quyền tài phán quốc gia gây
ra
Các quốc gia ven
biển thông qua các luật và quy định để ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm
đối với môi trường biển trực tiếp hay gián tiếp do các hoạt động liên quan đến
đáy biển thuộc quyền tài phán quốc gia gây ra, hay xuất phát từ các đảo nhân
tạo, thiết bị và công trình thuộc quyền tài phán của mình theo các Điều 60 và
80.
Các quốc gia thi
hành mọi biện pháp khác có thể cần thiết để ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự sự ô
nhiễm này.
Các luật, quy định
và biện pháp này không được kém hiệu quả hơn các quy tắc và quy phạm quốc tế
hay các tập quán và thủ tục đã được kiến nghị có tính chất quốc tế. Các quốc
gia cố gắng điều hòa các chính sách của mình về mặt này ở mức độ khu vực thích
hợp.
Đặc biệt khi hành
động qua trung gian của các tổ chức quốc tế có thẩm quyền hay qua một hội nghị
ngoại giao, các quốc gia thông qua các quy tắc và quy phạm cũng như tập quán và
thủ tục được kiến nghị, trên phạm vi thế giới và khu vực, để ngăn ngừa, hạn chế
và chế ngự nạn ô nhiễm môi trường biển nói ở khoản 1. Các quy tắc và quy phạm
cũng như tập quán và thủ tục được kiến nghị này, tùy theo sự cần thiết mà qua
từng thời kỳ được xem xét lại.
ĐIỀU 209. Ô
nhiễm do các hoạt động tiến hành trong Vùng gây ra
1. Các quy tắc, quy
định và thủ tục quốc tế được thông qua theo đính Phần XI để ngăn ngừa, hạn chế
và chế ngự ô nhiễm môi trường biển do các hoạt động tiến hành trong Vùng gây
ra. Các quy tắc, quy định và thủ tục này, tùy theo sự cần thiết mà qua từng
thời kỳ được xem xét lại.
2. Trong điều kiện
tuân theo các quy định thích hợp của mục này, các quốc gia thông qua các luật
và quy định để ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm môi trường biển này sinh
từ các hoạt động tiến hành trong Vùng của các tàu thuyền hay xuất phát từ các
thiết bị, công trình hay các phương tiện khác, tùy theo trường hợp, treo cờ của
các quốc gia đó, đăng ký ở trên lãnh thổ hay thuộc quyền của họ. Các luật và
quy định này không được kém hiệu lực hơn các quy tắc,quy định và thủ tục quốc
tế nói ở khoản 1.
ĐIỀU 210. Ô
nhiễm do sự nhận chìm
Các quốc gia thông
qua các luật và quy định để phòng ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm môi trường
biển do sự nhận chìm.
Các quốc gia thi
hành tất cả các biện pháp khác có thể cần thiết để ngăn ngừa, hạn chế và chế
ngự ô nhiễm này.
Các luật, quy định
và biện pháp phải bảo đảm rằng không một sự nhận chìm nào có thể được tiến hành
mà không được phép của các nhà đương cục có thẩm quyền của các quốc gia.
Đặc biệt khi hành
động qua trung gian của các tổ chức quốc tế có thẩm quyền hay qua một hội nghị
ngoại giao; các quốc gia cố gắng thông qua trên phạm vi thế giới và khu vực các
quy tắc và quy phạm cũng như tập quán và thủ tục được kiến nghị để ngăn ngừa,
hạn chế và chế ngự ô nhiễm này. Các quy tắc và quy phạm cũng như tập quán và
thủ tục được kiến nghị này, tùy theo sự cần thiết mà qua từng thời kỳ được xem
xét lại.
Việc nhận chìm ở
trong lãnh hải và trong vùng đặc quyền về kinh tế hay trên thềm lục địa không
thể được tiến hành nếu không được sự đồng ý rõ ràng trước quốc gia ven biển;
quốc gia ven biển có quyền cho phép, quy định và kiểm soát sự nhận chìm này,
sau khi đã xem xét đúng mức vấn đề với các quốc gia khác mà do những hoàn cảnh
địa lý nên việc nhận chìm này có thể có những tác hại đối với họ.
Các luật và quy
định cũng như các biện pháp quốc gia không được kém hiệu lực hơn các quy tắc và
quy phạm có tính chất thế giới để ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm này.
ĐIỀU 211. Ô
nhiễm do tàu thuyền gây ra
Hành động qua
trung gian của tổ chức quốc tế có thẩm quyền hay qua một hội nghị ngoại giao
chung, các quốc gia thông qua các quy tắc và quy phạm quốc tế nhằm ngăn ngừa,
hạn chế và chế ngự ô nhiễm môi trường biển do các tàu thuyền gây ra và quan tâm
tạo điều kiện dễ dàng cho việc định ra, cũng theo cách nói trên, nếu cần, các
cách bố trí đường giao thông cho tàu thuyền nhằm hạn chế đến mức tối thiểu nguy
cơ xảy ra tai nạn có thể làm cho môi trường biển kể cả vùng duyên hải bị ô
nhiễm, và do đó mà đụng chạm đến những lợi ích có liên quan của các quốc gia
ven biển. Các quy tắc và quy phạm này, cũng theo cách như thế, tùy theo sự cần
thiết mà qua từng thời kỳ được xem xét lại.
Các quốc gia thông
qua các luật và quy định để ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm môi trường
biển do tàu thuyền mà mình cho mang cờ hay cho đăng ký gây ra. Các luật và quy
định này không được kém hiệu quả hơn các quy tắc và quy phạm quốc tế được chấp
nhận chung và được xây dựng qua trung gian của tổ chức quốc tế có thẩm quyền
hay qua một hội nghị ngoại giao chung.
Nhằm mục đích ngăn
ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm môi trường biển, các quốc gia khi đặt ra các
điều kiện đặt biệt cho các tàu thuyền nước ngoài đi vào các cảng hay nội thủy
của mình hoặc công trình cảng cuối cùng ở ngoài khơi, cần phải công bố đúng thủ
tục về các điều kiện này và phải thông báo cho các tổ chức quốc tế có thẩm
quyền. Để điều hòa chính sách về mặt này, khi hai hay nhiều quốc gia ven biển
đặt ra các điều kiện như vậy dưới một hình thức giống nhau, cần ghi rõ trong
thông báo các quốc gia nào tham gia vào các thỏa thuận như vậy. Mọi quốc gia
đòi hỏi thuyền trưởng của một chiếc tàu mà mình cho mang cờ hay đăng ký, khi
tàu có mặt ở trong lãnh hải của một quốc gia tham gia vào những thỏa thuận
chung này, phải cung cấp, theo yêu cầu của quốc gia này, những thông tin chỉ rõ
liệu chiếc tàu này có hướng về một quốc gia thuộc cùng khu vực tham gia vào các
thỏa thuận này không và, nếu đúng, cần xác định xem chiếc tàu này có đáp ứng
đầy đủ các điều kiện do quốc gia này đặt ra liên quan đến việc đi vào trong các
cảng của mình không. Điều này được áp dụng không phương hại đến việc tiếp tục
thực hiện quyền đi qua không gây hại của một chiếc tàu hay đến việc áp dụng
Điều 25, khoản 2.
Trong việc thi
hành chủ quyền đối với lãnh hải của mình, các quốc gia ven biển có thể thông
qua các luật và quy định để ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm môi trường
biển do tàu thuyền nước ngoài gây ra, kể cả các tàu thuyền đang thực hiện quyền
đi qua không gây hại. Các luật và quy định này, theo đúng với Mục 3 của phần
II, không được cản trở việc đi qua không gây hại của tàu thuyền nước ngoài.
Nhằm thực hiện
việc áp dụng đã nói ở mục 6, các quốc gia ven biển có thể thông qua các luật và
quy định nhằm ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm do tàu thuyền gây ra trong
vùng đặc quyền về kinh tế của mình; các luật và quy định đó phải phù hợp và đem
lại hiệu lực cho các quy tắc và quy định quốc tế được chấp nhận chung và được
xây dụng qua trung gian của các tổ chức quốc tế có thẩm quyền hay qua một hội
nghị ngoại giao chung.
a. Khi các quy tắc
và quy phạm quốc tế nói ở khoản 1 không cho phép đáp ứng một cách thích đáng
với những tình huống đặc biệt và nếu một quốc gia ven biển có lý do chính đáng
để cho rằng một khu vực đặc biệt và được xác định rõ ràng trong vùng đặc quyền
về kinh tế của mình, đòi hỏi phải thông qua các biện pháp bắt buộc đặc biệt để
ngăn ngừa ô nhiễm do tàu thuyền gây ra, vì những lý do kỹ thuật được thừa nhận
do những đặc điểm hải dương học và sinh thái học của khu vực đó cũng như do
việc sử dụng hay việc bảo vệ các tài nguyên của khu vực đó và do đặc điểm riêng
của luồng giao thông, thì quốc gia này, sau khi thông qua trung gian của tổ
chức quốc tế có thẩm quyền, đã tham khảo ý kiến thích đáng với mọi quốc gia hữu
quan, có thể gửi lên tổ chức này một thông báo liên quan đến khu vực xem xét
bằng cách đưa ra những chứng minh khoa học và kỹ thuật, cũng như những chỉ dẫn
về cá thiết bị thu nhận cần thiết để chứng minh. Trong thời hạn 12 tháng sau
khi nhận được thông báo, tổ chức quyết định xem tình hình trong khu nvực được
xem xét có đáp ứng các điều kiện kể trên không. Nếu tổ chức quyết định đúng là
như vậy, thì quốc gia ven biển có thể thông qua cho khu vực này các luật và quy
định nhằm ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm do các tàu thuyền gây ra đem
lại hiệu lực cho các quy tắc và quy phạm hay tập quán về hàng hải quốc tế mà tổ
chức đã đưa ra áp dụng cho những khu vực đặc biệt.Các luật và quy định này chỉ
được áp dụng đối với các tàu thuyền nước ngoài sau một thời hạn là 15 tháng kể
từ ngày thông báo cho tổ chức;
Quốc gia ven biển
công bố các giới hạn của các khu vực đặc biệt và được xác định rõ ràng này;
Khi làm thông báo
kể trên, quốc gia ven biển cần đồng thời nói rõ cho tổ chức rằng họ có ý định
thông qua, cho khu vực mà họ đề cập, những luật và quy định bổ sung nhằm ngăn
ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm môi trường do tàu thuyền gây ra hay không. Các
luật và quy dịnh bổ sung này có thể đề cập việc thải bỏ hay những tập quán hàng
hải, nhưng không bắt buộc các tàu thuyền nước ngoài phải tôn trọng các tiêu
chuẩn khác về mặt thiết kế, cấu trúc và trang bị, ngoài các quy tắc và quy phạm
quốc tế đẵ được chấp nhận chung; các luật và quy định bổ sung này có thế áp
dụng cho tàu thuyền nước ngoài, sau 15 tháng kể từ ngày thông báo cho tổ chức
này, với điều kiện là tổ chức này, trong một thời hạn là 12 tháng, kể từ ngày
được thông báo, đã chuẩn y các luật và quy định bổ sung nói trên.
Các quy tắc và quy
phạm quốc tế nêu ở điều này còn cần trù định nghĩa vụ phải thông báo ngay lập
tức cho các quốc gia ven biển mà vùng duyên hải hay các lợi ích liên quan của
họ có nguy cơ bị những tai nạn trên biển tác động đến, nhất là những tai nạn
dẫn đến hay có nguy cơ dẫn đến những việc thải bỏ.
ĐIỀU 212. Ô
nhiễm có nguồn gốc từ bầu khí quyển hay qua bầu khí quyển
Để ngăn ngừa, hạn
chế và chế ngự ô nhiễm môi trường biển có nguồn gốc từ bầu khí quyển hay qua
bầu khí quyển, các quốc gia thông qua các luật và quy định áp dụng ở vùng trời
thuộc chủ quyền của mình và áp dụng cho các tàu thuyền mang cờ của mình hay cho
các tàu thuyền hoặc các phương tiện bay mà mình cho đăng ký, có tính đến các
quy tắc quy phạm, cũng như những tập quán và thủ tục được kiến nghị, và đã được
chấp nhận trên phạm vi quốc tế vá có tính đến an toàn hàng không.
Các quốc gia thi
hành các biện pháp khác có thể cấn thiết để ngăn giữ, hạn chế và chế ngự ô nhiễm
này.
Đặc biệt khi hành
động qua trung gian cảu các tổ chức quốc tế có thẩm quyền hay qua một hội nghị
ngoại giao, các quốc gia cố gắng thông qua các quy tắc và quy phạm, cũng như
các tập quán và thủ tục được kiến nghị trên phạm vi thế giới và khu vực để ngăn
ngừa, hạn chế và chế ngự nạn ô nhiễm này.
Mục
6
VIỆC
ÁP DỤNG
ĐIỀU 213. Việc
áp dụng quy định liên quan đến ô nhiễm xuất phát từ đất
Các quốc gia đảm
bảo việc áp dụng các luật và quy định và thi hành theo đúng Điều 207; Các quốc
gia thông qua luật và quy định và thi hành các biện pháp cần thiết khác để đem
lại hiệu lực cho các quy tắc và quy phạm quốc tế có thẩm quyền hay qua một hội
nghị ngoại giao nhằm ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm môi trường biển bắt
nguồn từ đất.
ĐIỀU 214. Việc
áp dụng các quy định liên quan đến ô nhiễm do các hoạt động liên quan đến đáy
biển gây ra
Các quốc gia bảo
đảm việc áp dụng các luật và quy định đã được thông qua theo đúng Điều 208; họ
thông qua các luật và các quy định và thi hành các biện pháp cấn thiết khác để
đem lại hiệu lực cho các quy tắc và quy phạm quốc tế có thể áp dụng, được xây
dựng qua trung gian của các tổ chức quốc tế có thẩm quyền hay qua một hội nghị
ngoại giao, để ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm môi trường do các hoạt
động liên quan đến đáy biển và thuộc quyền tài phán của mình, trực tiếp hay
gián tiếp gây ra, hay xuất phát từ các đảo nhân tạo, các thiết bị và công trình
được đặt dưới quyền tài phán của mình theo các Điều 60 và 80.
ĐIỀU 215. Việc
áp dụng quy định quốc tế liên quan đến ô nhiễm do các hoạt động tiến hành trong
Vùng gây ra
Việc áp dụng quy
tắc, quy định và thủ tục quốc tế được xây dựng theo đúng Phần XI để ngăn ngừa,
hạn chế và chế ngự ô nhiễm môi trường biển gây ra bởi các hoạt động tiến hành
trong Vùng do phần này điều chỉnh.
ĐIỀU 216. Việc
áp dụng quy định liên quan đến ô nhiễm do việc nhận chìm
Các luật và quy
định được thông qua theo đúng Công ước và các quy tắc và quy phạm quốc tế có
thể áp dụng, được xây dựng qua trung gian của các tổ chức quốc tế có thẩm quyền
hay qua một hội nghị ngoại giao nhằm ngăn ngừa,hạn chế và chế ngự ô nhiễm môi
trường biển bởi việc nhận chìm do các đối tượng sau đây thi hành: Quốc gia ven
biển, đối với việc nhận chìm nằm trong giới hạn của lãnh hải hay vùng đặc quyền
về kinh tế hay trên thềm lục địa của mình;
Quốc gia mà tàu
mang cờ, đối với các tàu thuyền mang cờ của mình hay các tàu hay phương tiện
bay mà mình cho đăng ký; Bất kỳ quốc gia nào, đối với việc đưa ra chất cặn bã
hay các chất khác lên lãnh thổ của mình hay lên các công trình cảng cuối cùng
ra khơi.
Theo điều này,
không quốc gia nào được khởi tố, khi vụ kiện đã được một quốc gia khác khởi tố
cũng theo đúng điều này.
ĐIỀU 217. Các
quyền hạn của các quốc gia mà tàu mang cờ
Các quốc gia quan
tâm đến việc tàu thuyền mang cờ của mình hay được mình cho đăng ký tôn trọng
các quy tắc và quay phạm quốc tế có thể áp dụng, được xây dựng qua trung gian
của tổ chức quốc tế có thẩm quyền hay qua một hội nghị ngoại giao chung, cũng
như các luật và quy định mà các quốc gia này đã thông qua theo đúng Công ước để
ngăn ngừa hạn chế và chế ngự ô nhiễm môi trường biển do tàu thuyền gây ra và họ
thông qua các quy luật và quy định, và thi hành các biện pháp cần thiết để đem
lại hiệu lực cho các quy luật và quy định đó. Quốc gia mà tàu mang cờ phải quan
tâm đến việc các quy tắc, quy phạm, luật và quy định này được áp dụng một cách
có hiệu quả, bất kể việc vi phạm xảy ra ở đâu.
Đặc biệt, các quốc
gia thi hành các biện pháp thích hợp để cấm các tàu thuyền mang cờ của nước
mình hay được mình cho đăng ký chuẩn bị nhổ neo, chừng nào chúng không tuân
theo đúng các quy tắc và quy phạm quốc tế nêu ở khoản 1, kể các quy định liên
quan đến cách thiết kế, cấu trúc, và trang bị của tàu thuyền.
Các quốc gia quan
tâm đến việc các tàu thuyền mang cờ của nước mình hay được mình cho đăng ký
phải có đủ các chứng từ cấn thiết và được cấp theo các quy tắc và quy phạm quốc
tế nêu ở khoản 1. Các quốc gia quan tâm đến việc các tàu thuyền mang cờ nước
mình phải được kiểm tra định kỳ xác minh xem lời ghi chú ở trên các chứng từ
này có phù hợp với tình trạng thực tế của con tàu hay không. Các quốc gia khác
chấp nhận các chứng từ này cũng có giá trị như là những chứng từ mà mình cấp,
trừ khi có lý do xác đáng để cho rằng tình trạng con tàu trong một chừng mực
quan trọng không phù hợp với các ghi chú ở trên các chứng từ này. Nếu một con
tàu vi phạm các quy tắc và quy định được xây dựng qua trung gian của tổ chức
quốc tế có thẩm quyền hay qua một hội nghị ngoại giao chung, quốc gia cho tàu
mang cờ, với điều kiện không phương hại tới các Điều 218, 220 và 228, phải lập
tức tiến hành mọi cuộc điều tra và, nếu thấy cần thì, khởi tố đối với vụ vi
phạm được suy đoán đó, bất kể nơi xảy ra vụ vi phạm này hay vị trí mà nạn ô
nhiễm do vụ vi phạm gây ra đã xảy ra hoặc được xác nhận là ở đâu.
Khi tiến hành điều
tra vụ vi phạm, quốc gia mà tàu mang cờ có thể yêu cầu sự giúp đỡ của mọi quốc
gia khác mà sự hợp tác có thể có ích để làm sáng tỏ các hoàn cảnh của sự việc.
Các quốc gia cố gắng đáp ứng các yêu cầu thích hợp của các quốc gia mà tàu mang
cờ.
Theo yêu cầu bằng
văn bản của một quốc gia,các quốc gia phải tiến hành điều tra về mọi vi phạm do
tàu thuyền mang cờ của họ có thể đã phạm phải. Quốc gia mà tàu mang cờ phải
tiến hành không chậm trễ việc truy tố về nội dung chính của sự vi phạm đã được
suy đoán theo đúng luật trong nước của mình, nếu tin chắc rằng đã có đủ chứng
cứ để tiến hành công việc này.
Quốc gia mà tàu
mang cờ thông báo ngay cho quốc gia yêu cầu và tổ chức quốc tế có thẩm quyền về
vụ việc đã được khởi tố và kết quả của nó. Tất cả các quốc gia đều được tiếp
xúc với những thông tin đã được thông báo đó.
Những chế tài được
trù định trong các quy luật và quy định của quốc gia đối với các tàu thuyền
mang cờ của mình cần phải nghiêm khắc để hạn chế các vụ vi phạm,ở bất cứ đâu.
ĐIỀU 218. Các
quyền hạn của quốc gia có cảng
Khi một chiếc tàu
tự ý có mặt ở trong một cảng hay ở một công trình cảng cuối cùng ngoài khơi,
quốc gia có cảng có thể mở một cuộc điều tra và, khi có các chứng cứ để chứng
minh, có thể khởi tố đối với bất kỳ sự thải đổ nào do chiếc tàu tiến hành ở
ngoại nội thủy, lãnh hải hay vùng đặc quyền về kinh tế của mình, vi phạm các
luật và quy phạm quốc tế có thể áp dụng, được xây dựng qua trung gian của tổ
chức quốc tế có thẩm quyền hay qua một hội nghị ngoại giao chung.
Quốc gia có cảng
không thể khởi tố theo khoản 1 đối với một vụ vi phạm do việc thải đổ nào do
chiếc tàu tiến hành ở ngoài nội thủy, lãnh hải hay vùng đặc quyền về kinh tế
của mình, hoặc là quốc gia mà tàu mang cờ hay quốc gia đã chịu, hay có nguy cơ
phải chịu, các tổn thất do việc thải đổ này gây ra yêu cầu. Khi một con tàu tự
ý có mặt trong một cảng hay ở một công trình cảng cuối cùng ngoài khơi, quốc
gia có cảng cố gắng chấp nhận những đơn yêu cầu điều tra của bất kỳ quốc gia
nào khác về việc thải đổ có khả năng gây ra vụ vi phạm đã nêu ở khoản 1 có thể
đã xảy ra trong nội thủy, lãnh hải hay vùng đặc quyền về kinh tế của quốc gia
yêu cầu, và có thể đã gây ô nhiễm hay có nguy cơ gây ô nhiễm cho các vùng này.
Quốc gia có cảng cũng cố gắng chấp nhận đơn yêu cầu điều tra của quốc gia mà
tàu mang cờ về những vi phạm như thế, bất kể các vụ vi phạm này có thể xảy ra ở
đâu.
Hồ sơ điều tra do
quốc gia có cảng tiến hành theo điều này được chuyển cho quốc gia mà tàu mang
cờ hay cho quốc gia ven biển theo yêu cầu của các quốc gia này. Bất kỳ việc nào
do quốc gia có cảng khởi tố dựa trên cơ sở của cuộc điều tra này, có thể bị
đình chỉ theo yêu cầu của quốc gia ven biển, với điều kiện phải tuân theo các
quy định của Mục 7, khi vụ vi phạm đã xảy ra trong nội thủy, lãnh hải hay vùng
đặc quyền về kinh tế của quốc gia ven biển này. Khi đó những chứng cứ, hồ sơ về
sự việc, cũng như mọi sự bảo lãnh hay đảm bảo tài chính đã được gửi cho những
nhà đương cục của quốc gia có cảng phải được chuyển cho quốc gia ven biển. Sau
khi chuyển giao hồ sơ, quốc gia có cảng không theo đuổi vụ kiện nữa.
ĐIỀU 219. Các
biện pháp kiểm tra khả năng đi biển nhằm tránh ô nhiễm
Với điều kiện tuân
thủ Mục 7, khi các quốc gia, theo yêu cầu hay tự ý mình xác định rằng một con
tàu đang ở một trong các cảng của mình hay ở một trong các công trình cảng cuối
cùng ở ngoài khơi của mình đã vi phạm các qui tắc và quy phạm quốc tế có thể áp
dụng liên quan đến khả năng đi biển của tàu thuyền và có nguy cơ từ đó gây ra
thiệt hại cho môi trường biển, cần thi hành các biện pháp hành chính trong phạm
vi khả năng của mình để ngăn không cho chiếc tàu này rời bến. Các quốc gia này
chỉ cho phép chiếc tàu này đi vào xưởng sửa chữa thích hợp gần nhất và, một khi
đã loại trừ các nguyên nhân gây ra vi phạm, các quốc gia này cho phép chiếc tàu
này tiếp tục hành trình của mình ngay lập tức.
ĐIỀU 220. Các
quyền hạn của quốc gia ven biển
Khi một chiếc tàu
tự ý có mặt trong cảng hay ở một công trình cảng cuối cùng ngoài khơi với điều
kiện tuân thủ Mục 7, quốc gia có cảng có thể khởi tố về bất kỳ vi phạm nào đôi
với các luật và quy định mà mình đã thông qua theo đúng Công ước hay theo đúng
các qui tắc và quy phạm quốc tế có thể áp dụng nhằm ngăn ngừa, hạn chế và chế
ngự ô nhiễm do tàu thuyền gây ra, nếu vụ vi phạm đã xảy ra trong lãnh hải hay
trong vùng đặc quyền kinh tế của mình.
Khi một quốc gia
có lý do xác đáng cho rằng chiếc tàu trong lúc đi qua lãnh hải của mình đã vi
phạm các luật và quy định mà mình đã thông qua theo đúng công ước hay các
nguyên tắc và quy phạm quốc tế có thể áp dụng nhằm ngăn ngừa, hạn chế và chế
ngự ô nhiễm do các tàu thuyền gây ra thì quốc gia này có thể tiến hành kiểm tra
cụ thể chiếc tàu đã gây ra vụ vi phạm, nhưng không làm phương hại đến việc áp
dụng các quy định thích hợp của Mục 3 thuộc phần II, và, khi có các chứng cứ để
chứng minh được điều đó thì có thể khởi tố và đặc biệt có thể ra lệnh giữ chiếc
tàu theo đúng luật trong nước của mình, với điều kiện phải tuân thủ theo quy
định của Mục 7.
Khi một quốc gia
có lý do xác đáng để cho rằng một con tàu đi trong vùng đặc quyền về kinh tế
hay trong lãnh hải của mình đã vi phạm các quy tắc và quy phạm quốc tế đó và
đem lại hiệu lực cho chúng, quốc gia này có thể yêu cầu con tàu cung cấp các
thông tin liên quan đến lý lịch và cảng đăng ký của tàu, cảng cuối cùng và cảng
sắp ghé vào của tàu và các thông tin thích hợp cần thiết khác để xác định có
phải một vụ vi phạm đã xảy ra không.
Các quốc gia thông
qua các luật và qui định và thi hành các biện pháp cần thiết cho các tàu thuyền
mang cờ của mình đáp ứng các yêu cầu về thông tin đã nêu ở khoản 3.
Khi một quốc gia
có các lý do xác đáng để cho rằng một chiếc tàu đi trong đặc quyền kinh tế hay
trong lãnh hải của mình đã gây ra một vụ vi phạm trong vùng đặc quyền kinh tế
đã nêu ở khoản 3 dẫn đến những việc thải đổ nghiêm trọng vào môi trường biển,
đã gây ra hoặc có nguy cơ gây ra ở môi trường biển này một vụ ô nhiễm đáng kể,
quốc gia có thể tiến hành kiểm tra cụ thể con tàu để xác minh xem có phải đã có
sự vi phạm không, nếu như con tàu từ chối không đưa ra các thông tin, hay nếu
những thông tin được cung cấp mâu thuẫn rõ ràng với sự thật, và nếu các hoàn
cảnh của sự việc lý giải cho sự kiểm tra này.
Khi có chứng cứ
chứng tỏ rằng một chiếc tàu đi trong vùng đặc quyền về kinh tế hay lãnh hải của
một quốc gia đã gây ra trong vùng đặc quyền về kinh tế một vụ vi phạm đã nêu ở
khoản 3 dẫn đến những việc thải đổ gây hoặc có nguy cơ gây ra những tổn thất
nghiêm trọng cho vùng duyên hải hay cho các lợi ích có liên quan của quốc gia
ven biển hay cho tất cả tài nguyên của lãnh hải hay vùng đặc quyền về kinh tế
của mình, thì quốc gia đó, với điều kiện tuân thủ Mục 7 và nếu có các chứng cứ
chứng minh được điều trên, có thể tiến hành khởi tố, nhất là ra lệnh giữ con
tàu lại theo đúng luật trong nước của mình.
Mặc dù đã có khoản
6, trong mọi trường hợp mà các thủ tục thích hợp đã được đặt ra qua trung gian
của tổ chức quốc tế có thẩm quyền, hoặc do thỏa thuận bằng mọi cách khác để tôn
trọng các nghĩa vụ liên quan đến việc nộp tiền bảo lãnh hay việc ký gửi một
khoản bảo đảm tài chính thích hợp khác, nếu như quốc gia ven biển có bị các thủ
tục đó ràng buộc, thì quốc gia đó cho phép chiếc tàu tiếp tục cuộc hành trình
của mình.
Các khoản 3, 4, 5,
6 và 7 cũng được áp dụng vào các luật và quy định quốc gia được thông qua theo
điều 211, khoản 6.
ĐIỀU 221. Các
biện pháp nhằm ngăn chặn ô nhiễm tiếp theo sau một tai nạn xảy ra trên biển
Không một qui định
nào của phần này đụng đến các quyền của các quốc gia, theo pháp luật quốc tế,
kể cả tập quán lẫn theo công ước, định ra và tiến hành áp dụng ở ngoài lãnh hải
các biện pháp cân xứng với những thiệt hại mà các quốc gia này đã thật sự phải
chịu đựng hay bị đe dọa phải chịu nhằm bảo vệ vùng duyên hải hay các lợi ích có
liên quan của mình, kể cả việc đánh bắt hải sản, chống nạn ô nhiễm hay đe dọa ô
nhiễm do một tai nạn xảy ra trên biển hoặc do những hành vi gắn liền với một
tai nạn như vậy gây ra mà người ta có căn cứ để chờ đợi những hậu quả tai hại.
Trong điều này,
thì “tai nạn trên biển” có nghĩa là một vụ đâm va, mắc cạn hay sự cố hàng hải
khác hoặc sự kiện xảy ra ở trên hay ở một con tàu gây ra những thiệt hại về vật
chất hay đe dọa sắp gây ra những thiệt hại về vật chất cho một chiếc tàu hay
hàng hóa của nó.
ĐIỀU 222. Việc
áp dụng quy định liên quan đến ô nhiễm có nguồn gốc từ bầu khí quyển hay qua
bầu khí quyển…
Trong giới hạn của
vùng trời thuộc chủ quyền của mình hay đối với các tàu thuyền mang cờ của mình
hoặc các tàu hay phương tiện bay được mình cho đăng ký, các quốc gia bảo đảm
việc áp dụng các luật, quy định mà mình đã thông qua theo đúng điều 212, khoản
1, theo đúng các quy định khác của Công ước, thông qua các luật và qui định,
thi hành các biện pháp khác để phát huy hiệu lực của các quy tắc và quy phạm
quốc tế có thể áp dụng, được xây dựng qua trung gian của các tổ chức quốc tế có
thẩm quyền hay qua một hội nghị ngoại giao nhằm ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô
nhiễm môi trường có nguồn gốc từ bầu khí quyển hay xuyên qua bầu khí quyển,
theo đúng tất cả các quy tắc và quy phạm quốc tế tương ứng liên quan đến an
toàn hàng không.
Mục
7
CÁC
BẢO ĐẢM
ĐIỀU 223. Các
biện pháp nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc triển khai một vụ kiện
Khi có một vụ kiện
do áp dụng phần này, các quốc gia thi hành các biện pháp để tạo thuận lợi cho
việc nghe nhân chứng và thu nhận các chứng cứ do các nhà đương cục của một quốc
gia khác hay do tổ chức quốc tế có thẩm quyền cung cấp và tạo điều kiện thuận
lợi cho việc tham gia các phiên tòa của các đại biểu chính thức của tổ chức
này, của quốc gia mà tàu mang cờ hay của bất kỳ quốc gia nào bị ảnh hưởng bởi nạn
ô nhiễm nảy sinh từ mọi vi phạm. Các đại biểu chính thức tham gia các phiên tòa
này có quyền và nghĩa vụ do luật trong nước hay pháp luật quốc tế trù định.
ĐIỀU 224. Việc
thi hành các quyền cảnh sát
Chỉ có những nhân
viên chính thức có đủ tư cách, cũng như các tàu chiến hay phương tiện bay quân
sự hay các tàu thuyền hoặc các phương tiện bay khác có mang những dấu hiệu bên
ngoài chứng tỏ rõ ràng rằng chúng thuộc một cơ quan nhà nước và được phép tiến
hành công việc đó, có thể thi hành các việc cảnh sát đối với các tàu thuyền
nước ngoài theo phần này.
ĐIỀU 225. Nghĩa
vụ đối với các quốc gia tránh các hậu quả tai hại có thể xảy ra trong khi thi
hành các quyền cảnh sát của họ
Khi thi hành quyền
cảnh sát của mình đối với tàu thuyền nước ngoài theo Công ước, các quốc gia
không được gây ra nguy hiểm cho an toàn hàng hải, không được gây ra một rủi ro
nào cho một con tàu hay dẫn con tàu đó về một cảng hoặc khu neo nguy hiểm, cũng
không gây ra rủi ro quá đáng cho môi trường biển.
ĐIỀU 226. Các
cuộc điều tra có thể được tiến hành đối với tàu thuyền nước ngoài
a) Các quốc gia
không được giữ một chiếc tàu nước ngoài lâu quá mức cần thiết để tiến hành các
cuộc điều tra đã được trù định ở các Điều 216, 218 và 220. Việc kiểm tra cụ thể
một chiếc tàu nước ngoài phải được giới hạn ở việc xem xét các chứng từ, sổ
đăng ký hay các tài liệu khác mà chiếc tàu có nhiệm vụ phải mang theo, theo các
quy tắc và quy phạm quốc tế được chấp nhận chung, hay mọi tài liệu tương tự;
chỉ có thể tiến hành kiểm tra cụ thể chiếc tàu tỉ mỉ hơn tiếp theo sau cuộc xem
xét này và với điều duy nhất là:
Có các lý do xác
đáng để cho rằng tình trạng con tàu hay trang thiết bị của nó về cơ bản không
phù hợp với những ghi chú ở trên các tài liệu.
Nội dung của các
tài liệu này không đủ để xác minh và thẩm tra vụ vi phạm đã được suy đoán.
Con tàu không mang
theo các chứng từ và tài liệu có giá trị.
b) Khi qua cuộc
điều tra mà thấy rằng đã có sự vi phạm các luật và qui định có thể áp dụng hay
các quy tắc và quy phạm quốc tế nhằm bảo vệ và gìn giữ môi trường biển, sau khi
con tàu đã hoàn thành các thể thức hợp lý, như việc ký gửi một khoản tiền bảo
lãnh hoặc một khoản bảo đảm tài chính khác, thì cần chấm dứt ngay việc cầm giữ.
c) Không làm
phương hại đến các quy tắc và quy phạm quốc tế có thể áp dụng về mặt khả năng
đi biển của tàu thuyền, nếu việc chấm dứt cầm giữ một con tàu sẽ có nguy cơ dẫn
tới thiệt hại do khinh suất đối với môi trường biển, thì con tàu nói trên có
thể không được phép tiếp tục cuộc hành trình, hoặc được phép nhưng với điều
kiện là phải đi đến xưởng sửa chữa thích hợp gần nhất. Trong trường hợp mà việc
chấm dứt cầm giữ con tàu bị từ chối hay bị đặt các điều kiện, thì quốc gia mà
tàu mang cờ phải được thông báo ngay về việc này và có thể yêu cầu chấm dứt
việc cầm giữ này theo đúng phần XV.
2. Các quốc gia
hợp tác để soạn thảo các thủ tục nhằm tránh khỏi việc kiểm tra cụ thể thừa đối
với tàu thuyền trên biển.
ĐIỀU 227. Việc
không phân biệt đối xử với tàu thuyền nước ngoài
Khi thi hành các
quyền và làm tròn các nghĩa vụ của mình theo phần này, các quốc gia không được
bắt các tàu thuyền của một quốc gia nào khác phải chịu một sự phân biệt đối xử
về mặt pháp lý hay về mặt thực tế.
ĐIỀU 228. Việc
đình chỉ các cuộc truy tố và các hạn chế đối với việc truy tố
Khi một quốc gia
tiến hành các cuộc truy tố nhằm trừng phạt một vi phạm do một chiếc tàu nước
ngoài gây ra ở bên ngoài lãnh hải của quốc gia trên đối với các luật và quy
định có thể áp dụng hay các quy tắc và qui phạm quốc tế nhằm ngăn ngừa, hạn chế
và chế ngự ô nhiễm do tàu thuyền gây ra, thì các cuộc truy tố này phải bị đình
chỉ ngay sau khi quốc gia mà tàu mang cờ đã tự mình tiến hành các cuộc truy tố
đối với nội dung chính của vụ vi phạm nói trên, trong vòng 6 tháng tiếp theo
việc khởi tố đầu tiên, trừ khi việc khởi tố này nhằm vào một trường hợp đã gây
thiệt hại nghiêm trọng cho quốc gia ven biển, hay quốc gia mà tàu mang cờ nói
trên đã nhiều lần không làm tròn nghĩa vụ của mình để bảo đảm áp dụng thực sự
các quy tắc và các quy phạm quốc tế hiện hành đối với các vụ vi phạm do tàu thuyền
của mình gây ra. Quốc gia mà tàu mang cờ khi đã yêu cầu đình chỉ các cuộc truy
tố theo đúng điều này trao lại trong thời gian thích hợp cho quốc gia đầu tiên
một hồ sơ đầy đủ về sự việc và các văn bản gốc của vụ án. Khi các tòa án của
quốc gia mà tàu mang cờ đã tuyên án thì các cuộc truy tố phải chấm dứt sau khi
đã thanh toán xong các chi phí về thủ tục, thì bất kỳ khoản tiền bảo lãnh hay
khoản bảo đảm tài chính nào khác được ký gửi khi tiến hành các cuộc truy tố này
đều phải được quốc gia ven biển trả lại.
Không thể tiến
hành các cuộc truy tố đối với tàu thuyền nước ngoài sau thời hạn 3 năm kể từ
ngày vi phạm, và không quốc gia nào có thể tiến hành rồi, với điều kiện phải
tuân thủ khoản 1.
Điều này không
đụng chạm đến quyền của quốc gia mà tàu mang cờ sử dụng mọi biện pháp, kể cả
quyền tiến hành các cuộc truy tố, theo đúng luật trong nước của mình, không phụ
thuộc vào các cuộc truy tố do một quốc gia khác tiến hành trước.
ĐIỀU 229. Việc
kiện về trách nhiệm dân sự
Không một quy định
nào của Công ước đụng chạm đến quyền khởi tố về trách nhiệm dân sự trong trường
hợp xảy ra những thiệt hại hay tổn thất do ô nhiễm môi trường biển.
ĐIỀU 230. Các
hình thức sử phạt bằng tiền và việc tôn trọng quyền bào chữa
Đối với trường hợp
vi phạm các luật và quy định quốc gia hay các quy tắc và quy phạm quốc tế có
thể áp dụng nhằm ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm môi trường biển do các
tàu thuyền nước ngoài gây ra ở ngoài lãnh hải thì chỉ có thể áp dụng hình thức
phạt tiền.
Đối với tình trạng
vi phạm các luật và quy định quốc gia hay các quy tắc và quy phạm quốc tế có
thể áp dụng nhằm ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm môi trường biển, do một
tàu nước ngoài gây ra ở trong lãnh hải, thì chỉ có thể áp dụng hình thức phạt
tiền, trừ trường hợp đó là một hành động cố ý và gây ra ô nhiễm nghiêm trọng.
Trong tiến trình các cuôc truy tố đã được tiến hành nhằm trừng phạt các vụ vi
phạm thuộc lọai này do một tàu nước ngoài phạm phải mà chiếc tàu có thể phải
chịu đụng những hình thức xử phạt, các quyền được thừa nhận của bị cáo vẫn được
tôn trọng.
ĐIỀU 231. Việc
tôn trọng thông báo cho quốc gia mà tàu mang cờ và cho các quốc gia hữu quan
khác
Các quốc gia thông
báo không chậm trễ cho các quốc gia mà tàu mang cờ và cho mọi quốc gia hữu quan
khác tất cả các biện pháp được sử dụng với tàu thuyền nước ngoài trong việc áp
dụng Mục 6, và giao cho quốc gia mà tàu mang cờ tất cả các báo cáo chính thức
có liên quan đến biện pháp này. Tuy nhiên, trong trường hợp các vụ vi phạm xảy
ra trong lãnh hải, quốc gia ven biển chỉ thực hiện các nghĩa vụ này đối với các
biện pháp đuợc dùng trong khuôn khổ các cuộc truy tố. Các nhân viên ngọai giao
hay các viên chức lãnh sự, và trong trường hợp có thể được, nhà đương cục về
biển của quốc gia mà tàu mang cờ được thông báo ngay về mọi biện pháp thuộc
loại này.
ĐIỀU 232. Trách
nhiệm của các quốc gia về biện pháp thi hành
Các quốc gia chịu
trách nhiệm về những thiệt hại và tổn thất có thể qui cho họ do các biện pháp
đã được sử dụng trong việc áp dụng Mục 6, khi các biện pháp này là bất hợp pháp
hay vượt quá mức cần thiết hợp lý, có xét đến các thông tin sẵn có.
ĐIẾU 233. Các
bảo đảm liên quan đến các eo biển dung cho hàng hải quốc tế
Không một quy định
nào của Mục 5, 7 và 6 đụng chạm đến chế độ pháp lý của các eo dùng cho hàng hải
quốc tế. Tuy nhiên, nếu một chiếc tàu nước ngoài không phải là các tàu thuyền
đã nêu ở Mục 10 vi phạm các luật và quy định đã nêu ở Điều 42 khoản 1, điểm a,
và b, gây ra hay đe dọa gây ra các thiệt hại nghiêm trọng cho môi trường biển
của các eo biển, thì quốc gia có eo biển có thể thi hành các biện pháp cảnh sát
thích hợp, trong khi vẫn tôn trọng mutatis mutandis (với những sửa đổi cần
thiết về chi tiết) mục này.
Mục
8
NHỮNG
KHU VỰC BỊ BĂNG BAO PHỦ
ĐIỀU 234. Các khu vực bị băng bao
phủ
Các quốc gia ven
biển có quyền thông quan và tiến hành áp dụng các luật và quy định không phân
biệt đối xử nhằm ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm môi trường biển do tàu
thuyền gây ra trong khu vực bị băng bao phủ và nằm trong ranh giới của vùng đặc
quyền về kinh tế, khi các điều kiện khí hậu đặc biệt khắc nghiệt và việc các
khu vực bao phủ phần lớn thời gian trong một năm gây trở ngại cho hàng hải hoặc
hoặc làm cho việc hàng hải trở nên đặc biệt nguy hiểm, và nạn ô nhiễm môi
trường biển có nguy cơ gây tác hại nghiêm trọng đến sự cân bằng sinh thái hay
làm rối lọan sự cân bằng này một cách không thể hồi phục được. Các luật và quy
định này phải lưu ý thích đáng đến hàng hải cũng như đến việc bảo vệ và gìn giữ
môi trường biển trên cơ sở của các dữ kiện khoa học chắc chắn nhất mà người ta
có thể có được.
Mục
9
TRÁCH
NHIỆM
ĐIỀU 235. Trách
nhiệm
Các quốc gia có
trách nhiệm quan tâm đến việc hoàn thành các nghĩa vụ quốc tế của mình về vấn
đề bảo vệ và gìn giữ môi trường biển. Các quốc gia có trách nhiệm theo đúng
luật quốc tế.
Quốc gia quan tâm
làm sao cho luật trong nước của mình có được những hình thức tố tụng cho phép
thu được sự đền bù nhanh chóng và thích đáng, hay sự bồi thường khác đối với
những thiệt hại nảy sinh từ ô nhiễm môi trường do tự nhiên nhân, hay pháp nhân
thuộc quyền tài phán của mình gây ra.
Để bảo đảm một sự
đền bù nhanh chóng và thích đáng mọi thiệt hại nảy sinh từ ô nhiễm môi trường
biển, các quốc gia cần hợp tác để bảo đảm áp dụng và phát triển luật quốc tế về
trách nhiệm có liên quan đến việc đánh giá và bồi thường các thiệt hại và việc
giải quyết các tranh chấp về mặt này, cũng như, nếu có thể, đến việc soạn thảo
các tranh chấp và thủ tục để thanh toán tiền bồi thường thích đáng, chẳng hạn
trù định một khoản bảo hiểm bắt buộc các quỹ bồi thường.
Mục
10 VIỆC MIỄN TRỪ CÓ TÍNH CHẤT CHỦ QUYỀN
ĐIỀU 236. Việc
miễn trừ có tính chất chủ quyền
Các quy định của
Công ước liên quan đến việc bảo vệ và gìn giữ môi trường biển không áp dụng đối
với các tàu chiến hay tàu thuyền bổ trợ, cũng như đối với các tàu thuyền khác
hay đối với các phương tiện bay thuộc một quốc gia hay do quốc gia này, khai
thác, khi trong thời gian xem xét, quốc gia này chỉ sử dụng chúng vào những mục
đích công vụ không có tính chất thương mại. Tuy nhiên, mỗi quốc gia thi hành
các biện pháp thích hợp không ảnh hưởng đến các hoạt động hay khả năng hoạt
động của tàu thuyền hay phương tiện bay thuộc mình hay do mình khai thác, sao
cho các tàu thuyền hay phương tiện bay này hành động một cách thích hợp với
Công ước trong chừng mực có thể làm được.
Mục
11
NGHĨA
VỤ PHÁT SINH TỪ CÁC CÔNG ƯỚC KHÁC VỀ VIỆC BẢO VỆ VÀ GÌN GIỮ MÔI TRƯỜNG BIỂN
ĐIỀU 237. Các
nghĩa vụ phát sinh từ các công ước khác về việc bảo vệ và gìn giữ môi trường
biển
Phần này không ảnh
hưởng đến các nghĩa vụ riêng thuộc bổn phận của các quốc gia theo các công ước
hay điều ước đặc thù được ký kết trước đây về mặt bảo vệ và gìn giữ môi trường
biển, cũng không ảnh hưởng đến các điều ước có thể được ký kết để áp dụng các
nguyên tắc chung đã được nêu trong Công ước.
Các quốc gia phải
làm tròn các nghĩa vụ riêng thuộc phận sự của mình có liên quan đến việc bảo vệ
và gìn giữ môi trường biển theo Công ước đặc biệt, một cách thích hợp với các
nguyên tắc và mục tiêu chung của Công ước.
PHẦN
XIII. VIỆC
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC BIỂN
Mục
1
CÁC
QUY ĐỊNH CHUNG
ĐIỀU 238. Quyền
tiến hành các cuộc nghiên cứu khoa học biển
Tất cả các quốc
gia, bất kể vị trí địa lý thế nào, cũng như các tổ chức quốc tế có thẩm quyền,
đều có quyền tiến hành các cuộc nghiên cứu khoa học biển, với điều kiện tôn
trọng các quyền và nghĩa vụ của các quốc gia khác như đã đuợc quy định trong
Công uớc.
ĐIỀU 239. Nghĩa
vụ tạo điều kiện thuận lợi cho việc nghiên cứu khoa học biển
Các quốc gia và tổ
chức quốc tế có thẩm quyền khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho việc
triển khai và chỉ đạo công tác nghiên cứu khoa học biển theo đúng Công uớc.
ĐIỀU 240. Các
nguyên tắc chung chi phối việc chỉ đạo công tác nghiên cứu khoa học biển
Công tác nghiên
cứu khoa học biển phải phục tùng các nguyên tắc sau đây:
Công tác này đuợc
tiến hành nhằm vào những mục đích hoàn toàn hòa bình;
Công tác này đuợc
tiến hành bằng cách dùng các phương pháp và phương tiện khoa học thích hợp phù
hợp với Công uớc;
Công tác này không
cản trở một cách vô lý những việc sử dụng biển hợp pháp khác phù hợp với Công
uớc và nó phải đuợc quan tâm đến trong các việc sử dụng này.
Công tác này đuợc
tiến hành theo đúng mọi quy định tương ứng đuợc thông qua để thi hành Cống uớc,
kể cả các quy định nhằm bảo vệ và giữ gìn môi truờng biển.
ĐIỀU 241. Việc
không thừa nhận công tác nghiên cứu khoa học biển với tư cách là cơ sở pháp lý
cho một yêu sách nào đó
Công
tác nghiên cứu khoa học biển không tạo ra co sở pháp lý cho một yêu sách nào
đối với một bộ phận nào đó của môi truờng biển hay của các tài nguyên của nó. Mục
2
SỰ
HỢP TÁC QUỐC TẾ
ĐIỀU 242. Nghĩa
vụ tạo điều kiện thuận lợi cho sự hợp tác quốc tế
Chấp hành nguyên
tắc tôn trọng chủ quyền và quyền tài phán, và trên cơ sở của nguyên tắc có đi
có lại về lợi ích, các quốc gia và các tổ chức quốc tế có thẩm quyền tạo điều
kiện thuận lợi cho việc hợp tác quốc tế về mặt nghiên cứu khoa học biển vì mục
đích hòa bình.
Trong bối cảnh này
và không làm phương hại đến các quyền và nghĩa vụ các quốc gia theo Công uớc,
một quốc gia khi hành động theo phần này, cần tùy theo tình hình mà dành cho
các quốc gia khác các khả năng hợp lý để nhận đuợc của mình hay với sự hợp tác
của mình các thông tin cần thiết để ngăn ngừa và chế ngự các tác hại đối với
sức khỏe và đối với sự an toàn của con nguời và môi truờng biển.
ĐIỀU 243. Việc
tạo ra các điều kiện thuận lợi
Các quốc gia, tổ
chức quốc tế có thẩm quyền hợp tác với nhau qua việc ký kết các hiệp định hai
bên và nhiều bên để tạo ra các điều kiện thuận lợi cho việc chỉ đạo công tác
nghiên cứu khoa học biển trong môi truờng biển và kết hợp những nỗ lực của các
nhà nghiên cứu khoa học tiền hành nghiên cứu bản chất của các hiện tuợng, các
quá trình xảy ra trong môi truờng biển và các tác động qua lại của chúng.
ĐIỀU 244. Việc
công bố và phổ biến các thông tin và kiến thức
Bằng các con đuờng
thích hợp và theo đúng Công uớc, các quốc gia và tổ chức quốc tế có thẩm quyền
công bố, phổ biến các thông tin liên quan đến các chương trình chủ yếu đuợc dự
tính và các mục tiêu của chúng, cũng như những kiến thức đuợc rút ra từ công
tác nghiên cứu khoa học biển.
Vì mục đích này,
các quốc gia, tự mình hay hợp tác với các quốc gia khác và với các tổ chức quốc
tế có thẩm quyền, tích cực tạo điều kiện thuận lợi cho việc trao đổi các dữ
kiện, thông tin khoa học và cho việc chuyển giao các kiến thức rút ra từ công
tác nghiên cứu khoa học biển, đặc biệt là cho các quốc gia đang phát triển cũng
như cho việc tăng cuờng khả năng của chính các quốc gia này để tiến hành các
công tác nghiên cứu khoa học biển, nhất là bằng các chuong trình giúp cho các
nhân viên kỹ thuật và khoa học của họ đuợc huởng một sự giáo dục và đào tạo
thích hợp.
Mục
3
SỰ
CHỈ ĐẠO CÔNG TÁC NGHIÊN CỨU
KHOA
HỌC BIỂN VÀ HOẠT ĐỘNG NHẰM
TẠO
ĐIỀU KIỆN THUẬN LỢI CHO CÔNG VIỆC NÀY
ĐIỀU 245. Việc
nghiên cứu khoa học biển ở trong lãnh hải
Trong việc thực
hiện chủ quyền của mình, các quốc gia ven biển có đặc quyền quy định, cho phép
và tiến hành các công tác nghiên cứu khoa học biển ở trong lãnh hải chỉ đuợc
tiến hành vợi sự thảo thuận rõ ràng của quốc gia ven biển và trong các điều
kiện do quốc gia này ấn định.
ĐIỀU 246. Việc
nghiên cứu khoa học biển trong vùng đặc quyền về kinh tế và trên thềm lục địa
Trong việc thi
hành quyền tài phán của mình, các quốc gia ven biển có quyền quy định, cho phép
và tiến hành các công tác nghiên cứu khoa học biển trong vùng đặc quyền về kinh
tế và trên thềm lục địa của mình theo đúng các quy định tương ứng của Công uớc.
Công tác nghiên
cứu khoa học biển trong vùng đặc quyền về kinh tế và trên thềm lục địa đuợc
tiến hành với sự thỏa thuận của quốc gia ven biển.
Trong những truờng
hợp bình thuờng, các quốc gia ven biển thỏa thuận cho thực hiện các dự án
nghiên cứu khoa học biển mà các quốc gia khác hay các tổ chức quốc tế có thẩm
quyền dự định tiến hành trong vùng đặc quyền về kinh tế hay trên thềm lục địa
của mình theo đúng Công uớc, nhằm vào những mục đích hoàn toàn hòa bình và để
tăng thêm kiến thức khoa học về môi truờng biển, vì lợi ích của toàn thể loài
nguời. Vì mục đích này, các quốc gia ven biển thông qua các quy tắc và thủ tục
bảo đảm sẽ cho phép trong những thời hạn hợp lý và sẽ không khuớc từ một cách
phi lý.
Trong việc áp dụng
khoản 3, các truờng hợp có thể đuợc coi là bình thuờng ngay cả khi giữa quốc
gia ven biển và quốc gia đề nghị thực hiện công trình nghiên cứu không có quan
hệ ngoại giao.
Tuy nhiên, quốc
gia ven biển có thể tùy ý mình không cho phép thực hiện một dự án nghiên cứu
khoa học biển do một quốc gia khác hay một tổ chức quốc tế có thẩm quyền đề
nghị tiến hành ở vùng đặc quyền về kinh tế hay trên thềm lục địa của mình trong
các truờng hợp sau: a. Nếu dự án có ảnh huởng trực tiếp đến việc thăm dò và
Khai thác các tài nguyên thiên nhiên, sinh vật và không sinh vật;
b. Nếu dự án có dự
kiến công việc khoan trong thềm lục địa, sử dụng chất nổ hay đưa chất độc hại
vào trong môi truờng biển;
c. Nếu dự án dự
kiến việc xây dựng, khai thác hay sử dụng các đảo nhân tạo, thiết bị và công
trình đã nêu ở các Điều 60 và 80;
d. Nếu những thông
tin đuợc thông báo về tình chất và mục tiêu của dự án theo Điều 248 không đúng,
hoặc nếu quốc gia hay tổ chức quốc tế có thẩm quyền, tác giả của dự án không
làm tròn những nghĩa vụ đã cam kết với quốc gia ven biển hữu quan trong một dự
án nghiên cứu truớc đây.
Mặc dầu khoản 5 đa
quy định như thế, các quốc gia ven biển cũng không thể thi hành quyền tùy ý
khuớc từ theo điểm a của khoản này, đối với các dự án nghiên cứu khoa học biển
đuợc tiến hành theo đúng phần này trên thềm lục địa ở cách đuờng cơ sở dùng để
tính chiều rộng lãnh hải quá 200 hải lý, ngoài các khu vực đặc biệt mà bất kỳ
lúc nào các quốc gia ven biển cung có thể chính thức chỉ định làm nơi hoặc sẽ
làm nơi để tiến hành công việc khai thác hay thăm dò đi vào chi tiết trong một
thời hạn hợp lý. Các quốc gia ven biển thông báo trong những thời hạn hợp lý
các khu vực mà mình chỉ định cũng như tất cả những thay đổi có liên quan, nhung
không có trách nhiệm cung cấp các chi tiết về các công việc trên các khu vực
này.
Khoản 6 đuợc áp
dụng không phương hại đến các quyền ở thềm lục địa đuợc thừa nhận cho các quốc
gia ven biển ở Điều 77.
Các công tác
nghiên cứu khoa học biển nói ở điều này không đuợc gây trở ngại một cách phi lý
cho các hoạt động do quốc gia ven biển tiến hành trong việc thi hành quyền
thuộc chủ quyền và quyền tài phán mà Công uớc đã trù định.
ĐIỀU 247. Các
dự dán nghiên cứu do các tổ chức quốc tế thực hiện hay duới sự bảo trợ của các
tổ chức này
Một quốc gia ven
biển là hội viên của một tổ chức quốc tế, hay bị ràng buộc với tổ chức quốc tế
đó qua một hiệp định tay đôi và ở vùng đặc quyền về kinh tế hay thềm lục địa
của quốc gia đó, tổ chức quốc tế nói trên muốn trực tiếp tiến hành, hay cho
tiến hành duới sự bảo trợ của mình một dự án nghiên cứu khoa học biển, thì nếu
như quốc gia đó đã chuẩn y dự án chi tiết khi tổ chức quốc tế quyết định tiến
hành dự án, hay là quốc gia đó đã sẵn sàng tham gia dự án nghiên cứu khoa học biển
và không có ý kiến phản đối nào sau thời gian 4 tháng, kể từ khi tổ chức đó
thông báo cho quốc gia về dự án nói trên, thì quốc gia đó coi như đa cho phép
thực hiện dự án đúng theo các quy định về tiêu chuẩn kỹ thuật đã thỏa thuận.
ĐIỀU 248. Nghĩa
vụ cung cấp các thông tin cho quốc gia ven biển
Các quốc gia và
các tổ chức quốc tế có thẩm quyền muốn tiền hành các công tác nghiên cứu khoa
học biển trong vùng đặc quyền về kinh tế hay trên thềm lục địa của một quốc gia
ven biển, phải cung cấp cho quốc gia này, chậm nhất là không quá 6 tháng truớc
thời gian dự kiến để bắt đầu dự án nghiên cứu khoa học biển, một bản mô tả đầy
đủ, chỉ rõ:
Tính chất và các
mục tiêu của dự án
Phương pháp và các
phương tiện sẽ đuợc sử dụng; có nói rõ tên, trọng luợng, kiểu và loại tàu
thuyền, và một bản mô tả các dụng cụ khoa học;
Các khu vực địa lý
cụ thể mà dự án sẽ thực hiện;
Các thời hạn dự
định cho chuyện đến đầu tiên và chuyện ra đi cuối cùng của các tàu thuyền
nghiên cứu, hay thời hạn dự định cho việc triển khai và rút thiết bị, và thời
hạn dự định cho việc thu hồi dụng cụ nghiên cứu, tùy theo truờng hợp;
Tên cơ quan bảo
trợ cho dự án nghiên cứu, tên của giám đốc cơ quan này và của nguời chịu trách
nhiệm dự án;
Mức độ mà quốc gia
ven biển có thể tham gia vào dự án hay đuợc cử đại diện
ĐIỀU 249. Nghĩa
vụ tuân thủ một số điều kiện
1. Các quốc gia và
tổ chức quốc tế có thẩm quyền thực hiện công tác nghiên cứu khoa học biển trong
vùng đặc quyền về kinh tế hay trên thềm lục địa của một quốc gia ven biển, cần
phải đáp ứng các điều kiện sau đây: a. Bảo đảm cho quốc gia ven biển, nếu quốc
gia này muốn, quyền tham gia vào dự án nghiên cứu khoa học biển hay đặc biệt là
khi có thể đuợc, cử đại diện lên trên các tàu thuyền và các xuồng nghiên cứu
khác hay lên trên các thiết bị nghiên cứu khoa học, nhung không phải thanh toán
một khoản tiền thù lao nào cho những nhà nghiên cứu của quốc gia này, và quốc
gia này cũng không bị buộc phải đóng góp vào các kinh phí của dự án;
b. Một khi công
việc nghiên cứu đã kết thúc, phải cung cấp càng sớm càng tốt, theo yêu cầu của
quốc gia ven biển, những báo cáo sơ bộ, cũng như các kết quả và kết luận cuối
cùng;
c. Cam kết cho
quốc gia ven biển, theo yêu cầu của họ, tiếp xúc với tất cả các mẫu vật và dữ
kiện thu đuợc trong khuôn khổ của dự án nghiên cứu khoa học biển, cũng như cam
kết cung cấp cho quốc gia này những dữ kiện có thể sao lại và các mẫu vật có
thể đuợc phân chia mà không làm giảm giá trị khoa học của chúng;
d. Cung cấp cho
quốc gia ven biển, theo yêu cầu của họ, một bản đánh giá về các dữ kiện, các
mẫu vật và các kết quả nghiên cứu đó, hay giúp đỡ cho quốc gia này tiến hành
đánh giá hoặc giải thích chung;
e. Với điều kiện
phải thực hiện quy định ở khoản 2, bảo đảm cho các kết quả của công tác nghiên
cứu đuợc sẵn sàng đưa ra sử dụng càng sớm càng tốt trên truờng quốc tế qua các
con đuờng quốc gia hay quốc tế thích hợp.
f. Thông báo ngay
cho quốc gia ven biển bất kỳ sửa đổi quan trọng nào đối với dự án nghiên cứu;
g. Một khi công
tác nghiên cứu đã kết thúc, phải tháo gỡ các thiết bị hay công cụ nghiên cứu
khoa học, trừ khi có sự thỏa thuận khác.
2. Điều này đuợc
áp dụng không làm phương hại đến các điều kiện do các luật và quy định của quốc
gia ven biển ấn định về việc thi hành quyền tùy ý quyết định đồng ý hay không
đồng ý theo Điều 246, khoản 5, kể cả việc bắt buộc phải đuợc sự đồng ý truớc
của nuớc đó mới đuợc phổ biến trên phạm vi quốc tế các kết quả nghiên cứu thuộc
một dự án có liên quan trực tiếp đến việc thăm dò và khai thác các tài nguyên
thiên nhiên.
ĐIỀU 250. Các
thông tin liên lạc liên quan đến các dự án nghiên cứu khoa học biển
Các thông tin liên
lạc liên quan đến các dự án nghiên cứu khoa học biển phải đuợc tiến hành qua
các con đuờng chính thức thích hợp, trừ khi có sự thỏa thuận khác.
ĐIỀU 251. Các
tiêu chuẩn chung và các nguyên tắc chỉ đạo
Các quốc qia hay
các tổ chức quốc tế có thẩm quyền có thể thực hiện một dự án nghiên cứu khoa
học sau một thời hạn 6 tháng kể từ ngày các thông tin cần thiết theo Điều 248
đã đuợc thông báo cho quốc gia ven biển, trừ khi trong một thời hạn 4 tháng kể
từ lúc nhận đuợc các thông tin này, quốc gia ven biển đã báo cho quốc gia hay
tổ chức đề nghị thực hiện các công tác nghiên cứu biết:
Quốc gia ven biển
đã khuớc từ theo Điều 246; hay
Các thông tin do
quốc gia hay tổ chức quốc tế có thẩm quyền này cung cấp về tính chất hay mục
tiêu của dự án không phù hợp với sự thực hiển nhiên; hay Quốc gia ven biển cần
có một thông báo bổ sung về những thông tin hoặc những điều kiện đã nêu ở các
Điều 248 và 249; hay
Các nghĩa vụ nẩy
sinh từ các điều kiện đã đuợc quy định ở Điều 249 cho một dự án nghiên cứu khoa
học biển do quốc gia hay tổ chức quốc tế này thực hiện truớc đây đã không đuợc
làm tròn.
ĐIỀU 253. Việc
đinh chỉ hoặc chấm dứt công việc nghiên cứu khoa học biển
1. Quốc gia ven
biển có quyền yêu cầu đinh chỉ các công việc nghiên cứu khoa học biển đang tiến
hành trong vùng đặc quyền về kinh tế hay trên thềm lục địa của mình:
Nếu công việc này
không đuợc tiến hành theo đúng các thông tin đã đuợc thông báo theo Điều 248 mà
quốc gia ven biển đã dựa vào để đồng ý cho phép; hay
Nếu quốc gia hay
tổ chức quốc tế có thẩm quyền khi tiến hành công việc này không tôn trọng các
quy định của Điều 249 liên quan đến các quyền của quốc gia ven biển đối với dự
án nghiên cứu khoa học biển.
2. Quốc gia ven
biển có quyền yêu cầu chấm dứt mọi công việc nghiên cứu khoa học biển trong tất
cả các truờng hợp mà việc không tuân thủ Điều 248 có nghĩa là làm thay đổi lớn
dự án các công trình nghiên cứu.
3. Quốc gia ven
biển cũng có thể yêu cầu chấm dứt các công việc nghiên cứu khoa học biển, nếu
như, trong một thời gian hợp lý, một điểm bất kỳ trong những tình hình nêu ở
khoản 1 không đuợc sửa chữa.
4. Sau khi nhận
đuợc thông báo về quyết định của quốc gia ven biển đòi đinh chỉ hay chấm dứt
công việc nghiên cứu khoa học biển, các quốc gia hay tổ chức quốc tế có thẩm
quyền đã đuợc phép tiến hành các công việc này phải chấm dứt những công việc
thuộc đối tuợng của thông báo.
5. Lệnh đinh chỉ
đuợc đưa ra theo khoản 1 phải do quốc gia ven biển thu hồi, và dự án khoa học
nghiên cứu biển có thể đuợc tiếp tục ngay khi quốc gia hay tổ chức quốc tế có
thẩm quyền thực hiện các công tác nghiên cứu khoa học biển này đã tuân theo các
điều kiện quy định ở các Điều 248 và 249.
ĐIỀU 254. Các
quyền của các quốc gia láng giềng không có biển và các quốc gia láng giềng có
hoàn cảnh địa lý bất lợi
1. Các quốc gia và
các tổ chức quốc tế có thẩm quyền khi đã trao cho một quốc gia ven biển một dự
án nghiên cứu khoa học biển nêu ở Điều 246, khoản 3, cần thông báo dự án này
cho các quốc gia láng giềng không có biển và các quốc gia láng giềng có hoàn
cảnh địa lý bất lợi, và báo cho quốc gia ven biển việc gửi các thông báo này.
2. Một khi quốc
gia ven biển có liên quan đã chấp thuận dự án, theo đúng điều 246 và các quy
định thích hợp khác của Công uớc, các quốc gia và các tổ chức quốc tế có thẩm
quyền khi thực hiện dự án cần cung cấp cho các quốc gia láng giềng không có
biển và các quốc gia láng giềng có hoàn cảnh địa lý bất lợi các thông tin đã
đuợc quy định rõ ở các Điều 248 và 249, khoản 1, điểm f, theo yêu cầu của họ và
tùy theo sự cần thiết.
3. Các quốc gia
không có biển và các quốc gia bất lợi về mặt địa lý đã nói ở trên, theo yêu cầu
của mình, có khả năng đuợc tham gia trong chừng mực có thể vào dự án nghiên cứu
khoa học hiển đã đuợc dự tính qua các chuyên gia có trình độ do mình chỉ định
và đuợc quốc gia ven biển chấp nhận, theo những điều kiện mà quốc gia ven biển
và quốc qia hay các tổ chức quốc tế có thẩm quyền tiến hành công tác nghiên cứu
khoa học biển đã thảo luận để thực hiện dự án, phù hợp với Công uớc.
4. Các quốc gia và
các tổ chức quốc tế có thẩm quyền đã nêu ở khoản 1 cung cấp cho các quốc gia
không có biển và các quốc gia bất lợi về mặt địa lý nói trên, theo yêu cầu của
họ, những thông tin và sự giúp đỡ đã đuợc quy định rõ ở Điều 249, khoản 1, điểm
d, với điều kiẹn phải tuân thủ khoản 2 của chính điều này.
ĐIỀU 255. Những
biện pháp nhằm tạo điều kiện dễ dàng cho việc nghiên cứu khoa học biển và giúp
đỡ cho các tàu thuyền nghiên cứu
Các quốc gia cố
gắng thông qua các quy tắc, quy định và thủ tục hợp lý nhằm khuyến khích và tạo
điều kiện thuận lợi cho việc nghiên cứu khoa học biển đuợc tiến hành theo đúng
Công uớc ở ngoài lãnh hải, và nếu cần, thì tạo điều kiện cho các tàu thuyền
nghiên cứu khoa học biển chấp hành các quy định thích hợp của phần này vào ra
cảng của các quốc gia nói trên đuợc dễ dàng, với điều kiện là phải tuân thủ
theo các luật và quy định của các quốc gia này, và phải khuyến khích sự giúp đỡ
cho các tàu thuyền này.
ĐIỀU 256. Việc
nghiên cứu khoa học biển trong Vùng
Tất cả các quốc
gia, bất kể hoàn cảnh địa lý của mình như thế nào, cũng như các tổ chức quốc tế
có thẩm quyền, đều có quyền thực hiện việc nghiên cứu khoa học biển trong Vùng,
theo đúng phần XI.
ĐIỀU 257. Việc
nghiên cứu khoa học biển trong phần nuớc nằm ngoài ranh giới của vùng đặc quyền
về kinh tế
Tất cả các quốc
gia, bất kể hoàn cảnh địa lý của mình như thế nào, cũng nhu các tổ chức quốc tế
có thẩm quyền, đều có quyền thực hiện việc nghiên cứu khoa học biển theo đúng
Công uớc trong phần nuớc nằm ngoài ranh giới của vùng đặc quyền về kinh tế.
Mục
4
CÁC
THIẾT BỊ VÀ DỤNG CỤ NGHIÊN CỨU
KHOA
HỌC TRONG MÔI TRUỜNG BIỂN
ĐIỀU 258. Việc
đặt và sử dụng
Việc đặt và sử
dụng các thiết bị hay dụng cụ nghiên cứu khoa học thuộc bất kỳ kiểu nào ở một
vùng nào đó của môi truờng biển phải phụ thuộc vào cùng các điều kiện như đã
đuợc Công uớc trù định cho việc tiến hành nghiên cứu khoa học biển ở trong khu
vực kể trên.
ĐIỀU 259. Chế
độ pháp lý
Các thiết bị hay
dụng cụ đuợc nêu trong mục này, không có quy chế của các đảo. Chúng không có
lãnh hải riêng, và sự có mặt của chúng không có ảnh huởng đến vấn đề hoạch định
ranh giới lãnh hải, vùng độc quyền về kinh tế hay thềm lục địa.
ĐIỀU 260. Khu
vực an toàn
Các khu vực an
toàn có một chiều rộng hợp lý không quá 500m có thể đuợc lập ra xung quanh các
thiết bị nghiên cứu khoa học, theo đúng các quy định tuong ứng của Công uớc.
Tất cả các quốc gia phải chú ý bảo đảm cho tàu thuyền của mình tôn trọng các
khu vực an toàn này.
ĐIỀU 261. Nghĩa
vụ không đuợc gây trở ngại cho hàng hải quốc tế
Việc đặt và sử
dụng các thiết bị hay dụng cụ nghiên cứu khoa học thuộc bất kỳ kiểu nào không
đuợc gây cản trở cho việc hàng hải theo các con đuờng quốc tế thuờng dùng.
ĐIỀU 262. Dấu
hiệu nhận dạng và phương tiện báo hiệu
Các thiết bị hay
dụng cụ đã nêu trong mục này phải có các dấu hiệu nhận dạng chỉ rõ quốc gia
đăng ký hay tổ chức quốc tế mà chúng phụ thuộc vào, cũng như, phải có các
phuong tiện báo hiệu thích hợp đã đuợc chấp thuận trên truờng quốc tế nhằm bảo
đảm an toàn hàng hải và hàng không, có tính đến các quy tắc và quy phạm do các
tổ chức quốc tế có thẩm quyền đặt ra.
Mục
5
TRÁCH
NHIỆM
ĐIỀU 263. Trách
nhiệm
Bổn phận của các
quốc gia và các tổ chức quốc tế có thẩm quyền là phải quan tâm, sao cho việc
nghiên cứu khoa học biển, bất kể chúng do hoặc nguời thay mặt cho họ thực hiện,
đều đuợc tiến hành theo đúng Công uớc.
Các quốc gia và tổ
chức quốc tế có thẩm quyền chịu trách nhiệm về những biện pháp mà mình thi
hành, vi phạm Công uớc, liên quan đến các công việc nghiên cứu khoa học biển do
các quốc gia khác, các tự nhiên nhân hay pháp nhân có quốc tịch của các quốc
gia khác đó hoặc do các tổ chức quốc tế có thẩm quyền tiến hành, và phải đền bù
các tồn thất do các biện pháp đó gây ra.
Các quốc gia và tổ
chức có thẩm quyền phải chịu trách nhiệm, theo Điều 235, về các tổn thất gây ra
bởi nạn ô nhiễm môi truờng biển xuất phát từ việc nghiên cứu khoa học biển do
mình thực hiện hay do nguời thay mặt cho mình thực hiện.
Mục
6
GIAỈ
QUYẾT CÁC TRANH CHẤP
VÀ
CÁC BIỆN PHÁP BẢO ĐẢM
ĐIỀU 264. Việc
giải quyết các tranh chấp
Các tranh chấp
liên quan đến việc giải thích hay áp dụng các quy định của Công uớc về việc
nghiên cứu khoa học biển đuợc giải quyết theo đúng các Mục 2 và 3 của Phần XV
ĐIỀU 265. Các
biện pháp bảo đảm
Chừng nào một
tranh chấp chưa đuợc giải quyết theo đúng các Mục 2 và 3 của Phần XV, thì quốc
gia hay tổ chức quốc tế có thẩm quyền đuợc phép thực hiện dự án nghiên cứu khoa
học biển, không cho phép thực hiện hay tiếp tục việc nghiên cứu khoa học nếu
không có sự đồng ý rõ ràng của các quốc gia ven biển hữu quan.
PHẦN
XIV
PHÁT
TRIỂN VÀ CHUYỂN GIAO KỸ THUẬT BIỂN
Mục
1
CÁC
QUY ĐỊNH CHUNG
ĐIỀU 266. Việc
xúc tiến phát triển và chuyển giao các kỹ thuật biển
1. Các quốc gia
hợp tác trực tiếp, hoặc thông qua các tổ chức quốc tế có thẩm quyền, trong phạm
vi khả năng của mình, nhằm tích cực tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển
và chuyển giao khoa học và kỹ thuật biển theo các thể thức và điều kiện công
bằng và hợp lý.
2. Các quốc gia
tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển khả năng trong lĩnh vực khoa học và
kỹ thuật biển của các quốc gia có nhu cầu và yêu cầu được hưởng một sự giúp đỡ
về kỹ thuật trong lĩnh vực này, nhất là các quốc gia đang phát triển, kể cả
quốc gia không có biển hay bất lợi về mặt địa lý, trong việc thăm dò, khai thác,
bảo vệ và quản lý các tài nguyên của biển, trong việc bảo vệ và giữ gìn môi
trường biển, trong việc nghiên cứu khoa học biển và các hoạt động khác nhằm
tiến hành trong môi trường biển phù hợp với Công ước, nhằm thúc đẩy tiển bộ xã
hội và kinh tế của các quốc gia đang phát triển.
3. Các quốc gia cố
gắng giúp tạo ra các điều kiện kinh tế và pháp lý thuận lợi cho việc chuyển
giao kỹ thuật biển, trên cơ sở công bằng, có lợi cho tất cả các bên hữu quan.
ĐIỀU 267. Việc
bảo vệ các lợi ích chính đáng
Để tạo điều kiện
cho sự hợp tác theo Điều 266, các quốc gia cần phải tính đến tất cả các lợi ích
chính đáng, cũng như các quyền và nghĩa vụ của người nắm giữ, những người cung
cấp và những người được nhận các kỹ thuật biển.
ĐIỀU 268. Các
mục tiêu cơ bản
Các quốc gia trực
tiếp hoặc thông qua các tổ chức quốc tế có thẩm quyền, cần phải xúc tiến: Việc
nắm, đánh giá và phổ biến các kiến thức trong lĩnh vực kỹ thuật biển; các quốc
gia này tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiếp xúc với các thông tin và các dữ
liệu tương ứng;
Việc phát triển
các kỹ thuật biển thích hợp;
Việc phát triển hạ
tầng cơ sở về kỹ thuật cần thiết để làm dễ dàng cho việc chuyển giao các kỹ
thuật biển;
Việc khai thác
nguồn nhân lực qua việc đào tạo và giảng dạy cho các công dân của các quốc gia và
các nước đang phát triển, đặc biệt là những nước kém phát triển nhất trong các
quốc gia đang phát triển đó;
Việc hợp tác quốc
tế ở mọi mức độ, nhất là việc hợp tác theo khu vực, phân khu vực và tay đôi.
ĐIỀU 269. Các
biện pháp được thi hành để đạt tới các mục tiêu cơ bản
Để đạt đến các mục
tiêu cơ bản đã nêu ở Điều 268, ngoài các biện pháp khác, các quốc gia tìm cách,
trực tiếp hoặc thông qua các tổ chức quốc tế có thẩm quyền, để:
Lập ra các chương
trình hợp tác kỹ thuật nhằm chuyển giao thực sự các kỹ thuật biển thuộc đủ mọi
loại cho các quốc gia có nhu cầu và yêu cầu hưởng một sự giúp đỡ về mặt kỹ
thuật biển trong lĩnh vực này, nhất là cho các quốc gia đang phát triển không
có biển hay bất lợi về địa lý, cũng như cho các quốc gia đang phát triển khác
không có khả năng hoặc để tạo ra hoặc để phát triển khả năng kỹ thuận riêng của
mình trong lĩnh vực khoa học biển và trong lĩnh vực thăm dò và khai thác các
tài nguyên của biển, cũng không có khả năng phát triển hạ tầng cơ sở cần thiết
cho các kỹ thuật này;
Giúp tạo ra các
điều kiện thuận lợi cho việc ký kết các hiệp định, các hợp đồng hay các thỏa
thuận tương tự khác, trong những điều kiện công bằng, hợp lý;
Tổ chức các hội
nghị, hội thảo và các cuộc thảo luận về các vấn đề khoa học và kỹ thuật, nhất là
về các chính sách và phương pháp cần đề ra để thực hiện chuyển giao các kỹ
thuật biển;
Tạo điều khiện
thuận lợi cho việc trao đổi các nhà khoa học, kỹ thuật và các chuyên gia khác;
Thực hiện các dự
án và xúc tiến các xí nghiệp liên doanh và các hình thức hợp tác hai bên và
nhiều bên khác.
Mục
2
VỀ
HỢP TÁC QUỐC TẾ
ĐIỀU 270. Khuôn
khổ và hợp tác quốc tế
Việc hợp tác quốc
tế để phát triển và chuyển giao kỹ thuật biển được thực hiện, khi có thể được
và thích hợp, trong khuôn khổ của các chương trình hai bên, khu vực, và nhiều
bên hiện có, cũng như trong khuôn khổ của các chương trình được mở rộng và của
các chương trình mới, nhằm làm dễ dàng cho việc nghiên cứu khoa học biển và
chuyển giao kỹ thuật biển, đặc biệt, trong các lĩnh vực mới, và việc cấp kinh phí
quốc tế thích hợp cho việc nghiên cứu đại dương và khai thác các đại dương.
ĐIỀU 271. Các
nguyên tắc chỉ đạo, các tiêu chuẩn và quy phạm
Các quốc gia, trực
tiếp hoặc thông qua các tổ chức quốc tế có thẩm quyền, tìm cách xúc tiến việc
soạn thảo các nguyên tắc chỉ đạo, các tiêu chuẩn và qui phạm được chấp nhận
chung về việc chuyển giao kỹ thuật biền trong khuôn khổ của các thỏa hiệp hai
bên hay trong khuôn khổ của các tổ chức quốc tế và cơ quan khác, đặc biệt, có
tính đến các lợi ích và nhu cầu của quốc gia đang phát triển.
ĐIỀU 272. Việc
phối hợp các chương trình quốc tế
Trong lĩnh vực
chuyển giao kỹ thuật biển, các quốc gia cố gắng bảo đảm cho các tổ chức quốc tế
có thâtm quyền phối hợp với các hoạt động của họ, kể cả mọi chương trình khu
vực và thế giới, có tính đến các lợi ích và nhu cầu của các quốc gia đang phát
triển, đặc biệt là các quốc gia không có biển hay bất lợi về mặt địa lý.
ĐIỀU 273. Việc
hợp tác với các tổ chức quốc tế và Cơ quan quyền lực
Các quốc gia tích
cực hợp tác với các tổ chức quốc tế có thẩm quyền và với Cơ quan quyền lực nhằm
khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho việc chuyển giao cho các quốc gia
đang phát triển, cho công dân của họ và cho xí nghiệp những kiến thức thực tiễn
và kỹ thuật biển có liên quan đến các hoạt động trong Vùng.
ĐIỀU 274. Các
mục tiêu của Cơ quan quyền lực
Về các hoạt động
tiến hành trong Vùng, Cơ quan quyền lực quan tâm tới mọi lợi ích chính đáng
cũng như các quyền và nghĩa vụ của những người nắm giữ, những người cung cấp và
những người được nhận kỹ thuật, đảm bảo cho:
Theo đúng nguyên
tắc phân chia công bằng về mặt địa lý, các công dân của các quốc gia đang phát
triền, dù là quốc gia ven biển, không có biển hay có hoàn cảnh địa lý bất lợi,
được đưa vào làm nhân viên tập sự trong số các nhân viên kỹ thuật, quản lý và
nghiên cứu được tuyển cho các nhu cầu hoạt động của Cơ quan quyền lực;
Tài liệu kỹ thuật
về dụng cụ, máy móc thiết bị và phương pháp đã dùng phải để cho tất cả các quốc
gia sử dụng, nhất là cho các quốc gia đang phát triển đang có nhu cầu và yêu
cầu được hưởng sự giúp đỡ kỹ thuật trong lĩnh vực này;
Các quy định thích
hợp phải được xác định ngay trong Cơ quan quyền lực để tạo điều kiện dễ dàng
cho các quốc gia có nhu cầu và yêu cầu được hưởng một sự giúp đỡ kỹ thuật trong
lĩnh vực kỹ thuật biển, nhất là các quốc gia đang phát triển, và công dân của
các nước này, nắm được các kiến thức và có trình độ thành thạo cần thiết, kể cả
việc được hưởng một sự đào luyện về nghề nghiệp.
Các quốc gia có
nhu cầu và yêu cầu được hưởng một sự giúp đỡ kỹ thuật trong lĩnh vực này, nhất
là các quốc gia đang phát triển, nhận được một sự giúp đỡ để có được trang
thiết bị, các phương pháp, dụng cụ và bí quyết kỹ thuật cần thiết, trong khuôn
khổ của các thỏa thuận tài chính trù định trong Công ước.
Mục
3
CÁC
TRUNG TÂM NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
VÀ
KỸ THUẬT BIỂN CỦA QUỐC GIA VÀ KHU VỰC
ĐIỀU 275. Việc
thành lập các trung tâm quốc gia
1. Các quốc gia,
trực tiếp hoặc thông qua các tổ chức quốc tế có thẩm quyền và Cơ quan quyền
lực, tạo điều kiện thuận lợi cho việc thành lập, nhất là trong các quốc gia ven
biển đang phát triển, các trung tâm quốc gia nghiên cứu khoa học và kỹ thuật
biển, và tăng cường các trung tâm hiện có, để động viên và xúc tiến việc nghiên
cứu khoa học biển trong các quốc gia này và để phát triển khả năng riêng của
từng nước nhằm sử dụng và gìn giữ các tài nguyên biển của họ cho mục đích kinh
tế.
2. Các quốc gia,
thông qua các tổ chức quốc tế có thẩm quyền và Cơ quan quyền lực, góp phần giúp
đỡ thích đáng để tạo điều kiện dễ dàng cho việc thành lập và tăng cường các
trung tâm quốc gia nhằm làm cho các quốc gia có nhu cầu và yêu cầu được hưởng
sự giúp đỡ như vậy có được những phương tiện đào tạo tiên tiến, những thiết bị,
những kiến thức thực tiễn và sự thông thạo cần thiết, cũng như các chuyên gia kỹ
thuật.
ĐIỀU 276. Việc
thành lập các trung tâm khu vực
1. Phối hợp với
các tổ chức quốc tế có thẩm quyền, Cơ quan quyền lực và các viện nghiên cứu
quốc gia về khoa học và kỹ thuật biển, các quốc gia tạo điều kiện dễ dàng cho
việc thành lập, nhất là trong các quốc gia đang phát triển, các trung tâm
nghiên cứu khoa học và kỹ thuật biển của khu vực, nhằm khuyến khích và thúc đẩy
việc nghiên cứu khoa học biển trong các quốc gia này và để làm dễ dàng cho việc
chuyển giao kỹ thuật biển.
2. Tất cả các quốc
gia của cùng một khu vực cần tập hợp tác với các trung tâm của khu vực để bảo
đảm tốt hơn việc thực hiện các mục tiêu của họ.
ĐIỀU 277. Những
chức năng của các trung tâm khu vực
Ngoài các chức
năng khác, các trung tâm khu vực có trách nhiệm bảo đảm:
Các chương trình
đào tạo và giảng dạy ở mọi trình độ trong các lĩnh vực nghiên cứu khoa học và
kỹ thuật biển khác nhau, đặc biệt là môn sinh vật biển, đề cập trước hết là
việc bảo về và quản lý các tài nguyên sinh vật, môn hải dương học, thủy văn
học, kỹ thuật công trình, thăm dò địa chất đáy biển, khai thác mỏ và kỹ thuật
khử mặn nước biển;
Việc nghiên cứu
công tác quản lý;
Các chương trình
nghiên cứu có quan hệ đến việc bảo vệ và gìn giữ môi trường biển và việc ngăn
ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm;
Việc tổ chức các
hội nghị, hội thảo và các cuộc thảo luận thuộc khu vực;
Thu thập và xử lý
dữ kiện và thông tin trong lĩnh vực khoa học và kỹ thuật biển;
Phổ biến nhanh
chóng các kết quả của việc nghiên cứu khoa học và kỹ thuật biển trong các tài
liệu dễ phổ cập;
Phổ biến các thông
tin về các chính sách quốc gia liên quan đến việc chuyển giao kỹ thuật biển, và
việc nghiên cứu so sánh có hệ thống các chính sách này;
Sưu tập và hệ
thống hóa các thông tin liên quan đến việc thương mại hóa các kỹ thuật, cũng
như đến các hợp đồng và các thỏa thuận khác về các chứng chỉ;
Hợp tác kỹ thuật
với các quốc gia khác của khu vực.
Mục
4
VIỆC
HỢP TÁC GIỮA CÁC TỔ CHỨC QUỐC TẾ
ĐIỀU 278. Việc
hợp tác giữa các tổ chức quốc tế
Các tổ chức quốc
tế có thẩm quyền nói trong phần này và Phần XIII thi hành mọi biện pháp cần
thiết để trực tiếp hay bằng cách hợp tác chặt chẽ, làm tròn các chức năng và
nhiệm vụ mà mình đảm đương theo phần này.
PHẦN
XV
GIẢI
QUYẾT CÁC TRANH CHẤP
Mục
1
CÁC
QUY ĐỊNH CHUNG
ĐIỀU 279. Nghĩa
vụ giải quyết tranh chấp bằng phương pháp hòa bình
Các quốc gia thành
viên giải quyết mọi tranh chấp xảy ra giữa họ về việc giải thích hay áp dụng
Công ước bằng các phương pháp hòa bình theo đúng Điều 2, khoản 3 của Hiến
chương liên hợp quốc và, vì mục đích này, cần phải tìm ra giải pháp bằng các
phương pháp đã được nêu ở Điều 33, khoản 1 của Hiến chương.
ĐIỀU 280. Giải
quyết các tranh chấp bằng bất kỳ phương pháp hòa bình nào do các bên lựa chọn
Không một quy định
nào của phần này ảnh hưởng đến quyền của các quốc gia thành viên đi đến thỏa
thuận giải quyết vào bất cứ lúc nào, bằng bất kỳ phương pháp hòa bình nào theo
sự lựa chọn của mình một vụ tranh chấp xảy ra giữa họ và vấn đề giải thích hay
áp dụng Công ước.
ĐIỀU 281. Thủ
tục phải tuân theo khi các bên không đạt tới một cách giải quyết
1. Khi các quốc
gia thành viên tham gia và một vụ tranh chấp liên quan đến việc giải thích hay
áp dụng Công ước đã thỏa thuận tìm cách giải quyết tranh chấp này bằng một
phương pháp hòa bình theo sự lựa chọn của mình, thì các thủ tục được trù định
trong phần này chỉ được áp dụng nếu người ta không đạt được một cách giải quyết
bằng phương pháp này và nếu sự thỏa thuận giữa các bên không loại trừ khả năng
tiến hành một thủ tục khác.
2. Nếu các bên
cùng thỏa thuận về một thời hạn, thì khoản một chỉ được áp dụng kể từ khi kết
thúc thời hạn này.
ĐIỀU 282. Các
nghĩa vụ xuất phát từ các hiệp định chung, khu vực hay hai bên
Khi các quốc gia
thành viên tham gia vào một vụ tranh chấp liên quan đến việc giải thích hay áp
dụng Công ước, trong khuôn khổ của một hiệp định chung, khu vực hay hai bên hay
bất kỳ cách nào, đã thỏa thuận rằng một vụ tranh chấp như vậy, sẽ phải tuân
theo một thủ tục dẫn đến một quyết định bắt buộc, thì thủ tục này được áp dụng
thay cho các thủ tục đã được trù định trong phần này, trừ khi các bên tranh
chấp có thỏa thuận khác.
ĐIỀU 283. Nghĩa
vụ tiến hành các cuộc trao đổi về quan điểm
1. Khi có tranh
chấp xảy ra giữa các quốc gia thành viên liên quan đến việc giải thích hay áp
dụng Công ước, các bên tranh chấp tiến hành ngay một cuộc trao đổi quan điểm về
cách giải quyết tranh chấp bằng thương lượng hay bằng các phương pháp hòa bình
khác.
2. Cũng như vậy,
các bên tiến hành ngay một cuộc trao đổi quan điểm mỗi khi kết thúc một thủ tục
giải quyết đối với một vụ tranh chấp như vậy mà không giải quyết được, hay mỗi
khi đã có một giải pháp và các hoàn cảnh đòi hỏi các cuộc tham khảo ý kiến liên
quan đến việc thi hành giải pháp đó.
ĐIỀU 284. Việc
hòa giải
1. Bất kỳ quốc gia
nào thành viên nào tham gia vào một vụ tranh chấp liên quan đến việc giải thích
hay áp dụng Công ước đều có thể yêu cầu quốc gia khác hay các bên khác đưa vụ
tranh chấp ra hòa giải theo thủ tục đã được trù định ở Mục 1 của Phụ lục V, hay
theo một thủ tục hòa giải khác.
2. Khi yêu cầu đã
được chấp nhận và nếu các bên đồng ý về thủ tục hòa giải sẽ được áp dụng, thì
bất kỳ bên nào cũng có thể đưa ra vụ tranh chấp ra hòa giải theo thủ tục đó.
3. Khi yêu cầu
không được chấp nhận hay nếu các bên không thỏa thuận được về thủ tục hòa giải,
thì coi như đã chấm dứt việc hòa giải.
4. Khi một vụ
tranh chấp đã được đưa ra hòa giải, thì chỉ kết thúc việc hòa giải theo đúng
thủ tục hòa giải đã thỏa thuận, trừ khi các bên có sự thỏa thuận khác.
ĐIỀU 285. Việc
áp dụng mục này cho các vụ tranh chấp đã được đưa ra theo phần XI
Mục này được áp
dụng cho bất kỳ vụ tranh chấp nào mà theo Mục 5 của Phần XI cần được giải quyết
theo đúng các thủ tục đã trù định trong phần này. Nếu một thực thế không phải
là một quốc gia thành viên tham gia vào một vụ tranh chấp như thế, thì mục này
được áp dụng mutalis mutandis (với những sửa đổi cần thiết về chi tiết).
Mục
2
CÁC
THỦ TỤC BẮT BUỘC
DẪN
TỚI CÁC QUYẾT ĐỊNH BẮT BUỘC
ĐIỀU 286. Phạm vi áp dụng mục này
Với điều kiện tuân
thủ Mục 3, mọi tranh chấp liên quan đến việc giải thích hay áp dụng Công ước
khi không được giải quyết bằng cách áp dụng Mục 1, theo yêu cầu của một bên
tranh chấp, đều được đưa ra trước tòa án có thẩm quyền theo mục này.
ĐIỀU 287. Việc
lựa chọn thủ tục
1. Khi ký hay phê
chuẩn Công ước hoặc tham gia Công ước, hay ở bất kỳ thời điểm nào sau đó, một
quốc gia được quyền tự do lựa chọn, hình thức tuyên bố bằng văn bản, một hay
nhiều biện pháp sau đây để giải quyết các tranh chấp có liên quan đến việc giải
thích hay áp dụng Công ước:
Tòa án quốc tế về
Luật biển được thành lập theo đúng Phụ lục VII;
Toà án quốc tế;
Một tòa trọng tài
được thành lập theo đúng Phụ lục VII;
Một tòa trọng tài
đặc biệt được thành lập theo đúng Phụ lục VIII để giải quyết một hay nhiều loại
tranh chấp đã được qui định rõ trong đó.
2. Một bản tuyên
bố theo khoản 1 không ảnh hưởng đến nghĩa vụ của một quốc gia thành viên phải
chấp nhận, trong phạm vi và theo các thể thức được trù định ở Mục 5 của phần
XI, thẩm quyền của Viện giải quyết các tranh chấp có liên quan đến đáy biển
thuộc Toàn án quốc tế về luật biển và tuyên bố đó cũng không bị nghĩa vụ này
tác động đến.
3. Một quốc gia
thành viên tham gia vào một vụ tranh chấp mà không được một tuyên bố còn có
hiệu lực bảo vệ, thì được xem là đã chấp nhận thủ tục trọng tài đã trù định ở
Phụ lục VII.
4. Nếu các bên
tranh chấp đã chấp nhận cùng một thủ tục để giải quyết tranh chấp, thì vụ tranh
chấp đó chỉ có thể được đưa ra giải quyết theo thủ tục đó, trừ khi các bên có
thỏa thuận khác.
5. Nếu các bên
tranh chấp không chấp nhận cùng một thủ tục để giải quyết tranh chấp, thì vụ
tranh chấp đó chỉ có thể được đưa ra giải quyết theo thủ tục trọng tài đã được
trù định ở Phụ lục VII, trừ khi các bên có thỏa thuận khác.
6. Một bản tuyên
bố theo đúng khoản 1 vẫn còn hiệu lực trong vòng 3 tháng sau khi đã gửi một thông
báo hủy bỏ cho Tổng thư ký Liên hợp quốc.
7. Một tuyên bố
mới, một thông báo hủy nbỏ hay việc một tuyên bố hết hạn không hề ảnh hưởng đến
thủ tục đang tiến hành trước một toàn án có thẩm quyền theo điều này, trừ khi
các bên có thỏa thuận khác.
8. Các tuyên bố và
thông báo đã nêu ở điều này được gửi đến Tổng thư ký Liên hợp quốc để lưu
chuyển và Tổng thư ký Liên hợp quốc chuyển các bản sao cho các quốc gia thành
viên.
ĐIỀU 288. Thẩm
quyền
1. Một tòa án đã
nêu ở Điều 287 có thẩm quyền xét xử bất kỳ tranh chấp nào liên quan đến việc
giải thích hay áp dụng Công ước đã được đưa ra cho mình theo đúng phần này.
2. Một tòa án nói
ở Điều 287 cũng có thẩm quyền xét xử bất kỳ tranh chấp nào liên quan đến việc
giải thích hay áp dụng một điều ước quốc tế có liên quan đến các mục đích của
Công ước và đã được đưa ra cho mình theo đúng điều ước này.
3. Viện giải quyết
tranh chấp liên quan đến đáy biển được lập nên theo đúng phụ lục VI và bất kỳ
viện nào khác, hay tòa trọng tài nào khác, đã nêu ở Mục 5 của Phần XI, đều có
thẩm quyền xét xử mọi vấn đề đã được đưa ra cho mình theo đúng mục đó.
4. Trong trường
hợp có sự tranh cãi về vấn đề một tòa án có thẩm quyền hay không, thì vấn đề
này do tòa án đó quyết định.
ĐIỀU 289. Các
chuyên viên
Đối với mọi tranh
chấp đụng chạm đến những vấn đề khoa học hay kỹ thuật, một tòa án khi thi hành
thẩm quyền của mình theo mục này, theo yêu cầu của một bên hay tự ý mình, và
qua tham khảo ý kiến các bên, có thể lựa chọn trên một bản danh sách thích hợp
được lập nên theo đúng Điều 2 của phụ lục VIII, ít nhất là 2 chuyên viên khoa
học hay kỹ thuật tham gia tòa án nhưng không có quyền biểu quyết.
ĐIỀU 290. Những
biện pháp bảo đảm
1. Nếu một tòa án
được đề nghị xét một vụ tranh chấp theo đúng thủ tục và thấy prima facie (hiển
nhiên) là mình có thẩm quyền theo phần này hay Mục 5 của phần XI, thì tòa án
này có thế qui định tất cả các biện pháp bảo đảm mà mình xét thấy thích hợp với
tình hình để bảo vệ các quyền riêng của từng bên tranh chấp hay để ngăn không
cho môi trường của biển bị những tổn thất nghiêm trọng, trong khi chờ quyết
định cuối cùng.
2. Các biện pháp
bảo đảm có thể bị sửa đổi hay hủy bỏ ngay khi các hoàn cảnh chứng minh cho các
biện pháp đó thay đổi hay không còn tồn tại.
3. Các biện pháp
bảo đảm chỉ có thể được qui định, sửa đổi hay hủy bỏ theo điều này, theo yêu
cầu của một bên tranh chấp và sau khi đã tạo cho các bên tranh chấp khả năng
thỏa thuận được với nhau.
4. Toà án thông
báo ngay mọi biện pháp bảo đảm hay mọi quyết định sửa bỏ hay hủy bỏ biện pháp
đó cho các bên tranh chấp, và nếu xét thấy thích hợp, thì thông báo cho các
quốc gia thành viên khác.
5. Trong khi chờ
lập ra một tòa trọng tài xét xử một vụ tranh chấp theo mục này, mọi tòa án do
các bên thỏa thuận với nhau chỉ định, hoặc, nếu không thỏa thuận được trong một
thời hạn 2 tuần sau ngày có yêu cầu các biện pháp bảo đảm. Toà án quốc tế về
luật biển, hay trong trường hợp của các hoạt động tiến hành trong Vùng, Viện
giải quyết các tranh chấp liên quan đến đáy biển, có thể quy định, sửa đổi hay
hủy bỏ các biện pháp bảo đảm theo đúng điều này, nếu như họ thấy prima facie
(hiển nhiên) rằng tòa án cần được lập ra sẽ có thẩm quyền, và nếu như họ xét
thấy rằng tính chất khẩn trương của tình hình đòi hỏi phải làm như vậy. Một khi
được thành lập, tòa án được giao xét xử vụ tranh chấp, hành động theo đúng các
khoản 1 đến 4, có thể sửa đổi, hủy bỏ hay xác nhận biện pháp bảo đảm này.
6. Các bên tranh
chấp phải tuân theo không chậm trễ các biện pháp bảo đảm được quy định theo
điều này.
ĐIỀU 291. Việc
sử dụng các thủ tục giải quyết tranh chấp
1. Tất cả các thủ
tục giải quyết tranh chấp được trù định trong phần này đều để ngỏ cho các quốc
gia thành viên.
2. Các thủ tục để
giải quyết tranh chấp được trù định trong phần này chỉ để ngo cho các thực thể
không phải là quốc gia thành viên trong phạm vi mà Công ước đã trù định một
cách rõ ràng.
ĐIỀU 292. Giải
phóng ngay cho tàu thuyền bị cầm giữ hay trả tự do cho đoàn thủy thủ của nó
1. Khi các nhà
chức trách của một quốc gia thành viên đã bắt giữ một chiếc tàu mang cờ của một
quốc gia thành viên khác và nếu thấy rằng quốc gia bắt giữ chiếc tàu đã không
tuân theo các qui định của Công ước trù định việc giải phóng ngay cho tàu
thuyền hay trả tự do cho đoàn thủy thủ của nó ngay khi ký gởi một khoản tiền
bảo lãnh hợp lý hay một khoản bảo đảm tài chính nào khác, thì vấn đề giải phóng
tàu hay trả tự do cho đoàn thủy thủ phải được đưa ra trước một tóa án do các
bên chỉ định theo một thỏa thuận chung; nếu không thỏa thuận đuợc trong một
thời hạn 10 ngày kể từ lúc bắt giữ chiếc tàu hay đoàn thủy thủ, vấn đề này có
thể được đưa ra trước một tòa án được quốc gia đã tiến hành bắt hay giữ tàu hay
đoàn thủy thủ chấp nhận theo đúng Điều 287, hay trước Tòa án quốc tế về luật
biển, trừ khi các bên có thỏa thuận khác.
2. Yêu cầu giải
phóng hay trả tự do chỉ có thể do quốc gia mà tàu mang cờ hoặc nhân danh quốc
gia ấy đưa ra.
3. Tòa án nhanh
chóng xem xét yêu cầu này và chỉ xét xử vấn đề giải phóng tàu hay trả tự do cho
đoàn thủy thủ, việc này không có ảnh hưởng gì đến tiến trình tiếp sau của mọi
vụ kiện mà chiếc tàu, người chủ chiếc tàu hay đoàn thủy thủ của nó có thể là
đối tượng trước quyền tài phán quốc gia thích hợp. Các nhà chức trách của quốc
gia đã tiến hành bắt, giữ vẫn có đủ tư cách ra lệnh giải phóng tàu hay trả tự
do cho đoàn thủy thủ của nó vào bất kỳ lúc nào.
4. Ngay khi đã ký
gửi khoản tiền bảo lãnh hay một khoản bảo đảm tài chính khác theo quyết định
của tòa án, các nhà chức trách của quốc gia đã bắt giữ tàu phải tuân theo quyết
định của tòa án về việc giải phóng tàu và trả tự do cho đoàn thủy thủ của nó.
ĐIỀU 293. Luật
có thể áp dụng
1. Tòa án có thẩm
quyền theo mục này áp dụng các qui định của Công ước và các qui tắc khác của
pháp luật quốc tế không mâu thuẫn với Công ước.
2. Khoản 1 không
đụng chạm đến quyền hạn của tòa có thẩm quyền theo mục này để xét xử ex
aequo bono (công bằng) nếu các bên thỏa thuận.
ĐIỀU 294. Các
thủ tục sơ bộ
1. Tòa án được trù
định ở Điều 287 nhận được đơn yêu cầu xét xử một vụ tranh chấp nói ở Điều 297
quyết định theo thỉnh cầu của một bên, hay có thể quyết định theo ý mình, xem
yêu cầu này có phải là một sự lạm dụng các phương pháp tố tụng hay prima
facie (hiển hiên) là có căn cứ. Nếu tòa án xét thấy rằng, đó là một sự lạm
dụng các phương pháp tố tụng hay prima facie (hiển hiên) là không có căn
cứ, thì tòa án thôi không xét đơn nữa.
2. Lúc nhận được
đơn, tòa án thông báo ngay cho bên kia hay các bên kia, và qui định một thời
hạn hợp lý, để các bên này có thể yêu cầu tòa quyết định về các điểm đã nêu ở
khoản 1.
3. Điều này không
hề đụng chạm đến các quyền của một bên tranh chấp nêu lên những phản bác sơ bộ
theo đúng các qui tắc tố tụng có thể áp dụng.
ĐIỀU 295.
Trường hợp các biện pháp tố tụng nội bộ đã được sử dụng hết
Một vụ tranh chấp
giữa các quốc gia thành viên liên quan đến việc giải thích hay áp dụng Công
ước, chỉ có thể được đưa ra giải quyết theo các thủ tụ đã qui định ở mục này
sau khi các biện pháp tố tụng nội bộ đã được sử dụng hết theo đòi hỏi của pháp
luật quốc tế.
ĐIỀU 296. Tính
chất tối hậu và bắt buộc của các quyết định
1. Các quyết định
do tòa án có thẩm quyền theo mục này đưa ra là có tính chất tối hậu, và tất cả
các bên tranh chấp phải tuân theo.
2. Các quyết định
đó chỉ có tính chất bắt buộc đối với các bên và trong trường hợp riêng biệt
được xem xét.
Mục
3
CÁC
GIỚI HẠN VÀ NGOẠI LỆ ĐỐI VỚI VIỆC ÁP DỤNG
ĐIỀU 297. Các
giới hạn áp dụng mục 2
1. Các vụ tranh
chấp liên quan đến việc giải thích hay áp dụng Công ước về việc thi hành các
quyền thuộc chủ quyền hay quyền tài phán của quốc gia ven biển như đã được trù
định trong Công ước, được xét theo các thủ tục giải quyết đã được trù định ở
Mục 2 trong các trường hợp sau đây:
Khi thấy rằng quốc
gia ven biển đã không tuân theo Công ước liên quan đến tự do và quyền hàng hải,
hàng không hoặc tự do và quyền đặt các dây cáp và ống dẫn ngầm, cũng như đến
việc sử dụng biển vào các mục đích khác mà quốc tế thừa nhận là chính đã nêu ở
Điều 58;
Khi thấy rằng
trong việc thi hành các tự do và các quyền đó hoặc trong việc sử dụng các quyền
này, một quốc gia đã không tuân theo Công ước hay các luật hoặc các qui định do
quốc gia ven biển đề ra phù hợp với các qui định của Công ước và các qui tắc
khác của pháp luật quốc tế không trái với Công ước; hoặc
Khi thấy rằng quốc
gia ven biển đã không tuân theo các qui tắc hay quy phạm quốc tế đã được xác
định nhằm bảo vệ và gìn giữ môi trường biển có thể áp dụng cho quốc gia này và
đã được Công ước đặt ra, hay được đặt ra thông qua một tổ chức quốc tế có thẩm
quyền hay một hội nghị ngoại giao hành động phù hợp với Công ước.
2. a) Các vụ tranh
chấp liên quan đến việc giải thích hay áp dụng các qui định của Công ước về
nghiên cứu khoa học biển được giải quyết theo đúng
Mục 2, trừ khi
quốc gia ven biển không chịu chấp nhận theo cách giải quyết như thế đối với một
vụ tranh chấp phát sinh từ:
Việc quốc gia này
thi hành một quyền tùy ý quyết định theo đúng Điều 246; hay
Quyết định của
quốc gia này ra lệnh đình chỉ hoặc chấm dứt tiến hành một dự án nghiên cứu theo
đúng Điều 253;
b) Các vụ tranh
chấp phát sinh từ một luận cứ của quốc gia nghiên cứu cho rằng trong trường hợp
của một dự án riêng biệt, quốc gia ven biển không sử dụng các quyền mà các Điều
246 và 253 đã dành cho mình một cách phù hợp với Công ước, thì theo yêu cầu của
bên này hay bên khác được đưa ra hòa giải theo thủ tục đã được trù định ở Mục 2
của Phụ lục V, dĩ nhiên là Ủy ban hòa giải không được xét việc thi hành quyền
tùy ý quyết định của quốc gia ven biển trong việc chỉ định các khu vực đặc
biệt, như đã được trù định ở Điều 246, khoản 6, cũng như việc thi hành quyền
tùy ý không cho phép theo đúng khoản 5 của cùng điều đó.
3. a) Các việc
tranh chấp liên quan đến việc giải thích hay áp dụng các qui định của Công ước
về việc đánh bắt hải sản được giải quyết theo đúng Mục 2, trừ khi quốc gia ven
biển không chịu chấp nhận cách giải quyết như vậy về một vụ tranh chấp liên
quan đến các quyền thuộc chủ quyền của mình đối với các tài nguyên sinh vật
thuộc Vùng đặc quyền về kinh tế của mình, hay liên quan đến việc thi hành các
quyền này, kể cả quyền tùy ý qui định khối lượng đánh bắt có thể chấp nhận được
và khả năng đánh bắt của mình, phân phối số dư ra giữa các quốc gia khác, quyết
định các thể thức, điều kiện đặt ra trong các luật và qui định của mình về bảo
vệ và quản lý;
b) Nếu việc vận
dụng Mục 1, không cho phép đi đến một cách giải quyết, thể theo yêu cầu của một
bên nào đó trong số các bên tranh chấp, vụ tranh chấp được đưa ra hòa giải theo
thủ tục được trù định ở Mục 2 của Phụ lục V, khi chứng minh được rằng quốc gia
ven biển đã:
Rõ ràng không thực
hiện nghĩa vụ phải dùng các biện pháp bảo vệ và quản lý thích hợp để bảo đảm
rằng việc duy trì các tài nguyên sinh vật thuộc vùng đặc quyền kinh tế không bị
ảnh hưởng nghiêm trọng;
Độc đoán từ chối
việc quy định, theo yêu cầu của một quốc gia khác khối lượng đánh bắt có thể
chấp nhận được và khả năng khai thác tài nguyên sinh vật của mình đối với các
đàn (stocks) hải sản mà việc khai thác có liên quan đến quốc gia khác đó; hay
Độc đoán từ chối
việc chia cho một quốc gia nào đó toàn bộ hay một phần số cá dư mà mình đã xác
nhận, như đã trù định ở các Điều 62, 69 và 70 và theo các thể thức và điều kiện
mà bản thân mình đã qui định và phù hợp với Công ước;
Ủy ban hòa giải
không có trường hợp nào được phép dùng quyền túy ý quyết định của mình thay cho
quyền tùy ý quyết định của các quốc gia ven biển. Báo cáo của Ủy ban hòa giải
phải được thông báo cho các tổ chức quốc tế thích hợp.
Khi đàm phán về
các thỏa thuận đã trù định ở các Điều 69 và 70, các quốc gia thành viên, trừ
khi có thỏa thuận khác, ghi vào đó một điều khoản trù định các biện pháp mà
mình phải thi hành để giảm đến mức tối thiểu các khả năng bất đồng về việc giải
thích hay áp dụng thỏa thuận, cũng như thủ tục phải tuân theo trong trường hợp
vẫn có bất đồng.
ĐIỀU 298. Những
ngoại lệ không bắt buộc đối với việc áp dụng Mục 2
1. Khi ký kết, phê
chuẩn hay tham gia Công ước, hoặc ở vào bất kỳ thời điểm nào sau đó, với điều
kiện không phương hại đến các nghĩa vụ phát sinh từ Mục 1, một quốc gia có thể
tuyên bố bằng văn bản rằng mình không chấp nhận một hay nhiều thủ tục giải
quyết các tranh chấp đã được trù định ở Mục 2 có liên quan đến một hay nhiều
loại tranh chấp sau đây:
a) i. Các vụ tranh
chấp về việc giải thích hay áp dụng các Điều 15, 74 và 83 liên quan đến việc
hoạch định ranh giới các vùng biển hay các vụ tranh chấp về các vịnh hay danh
nghĩa lịch sử, nghĩa là khi một tranh chấp như thế xảy ra sau khi Công ước có
hiệu lực và nếu các bên không đi đến một thỏa thuận nào bằng con đường thương
lượng trong một thời hạn hợp lý, thì quốc gia đã tuyên bố, theo yêu cầu của một
trong các bên, chấp nhận đưa vụ tranh chấp đó ra hòa giải theo thủ tục đã được
trù định ở Mục 2 của phụ lục V, và đương nhiên không thể đưa ra xét theo thủ
tục này một vụ tranh chấp nào đòi hỏi nhất thiết phải xem xét đồng thời một vụ
tranh chấp chưa được giải quyết liên quan đến chủ quyền và các quyền khác trên
một lãnh thổ đất liền hay đảo;
ii. Một khi Ủy ban
hòa giải đã trình bày báo cáo của mình, báo cáo phải nói rõ được lý do, thì các
bên thương lượng về một thỏa thuận trên cơ sở của báo cáo này; nếu các cuộc
thương lượng không thành, thì các bên, qua sự thỏa thuận với nhau, đưa vấn đề
ra theo các thủ tục đã được quy định ở Mục 2, trừ khi các bên có thỏa thuận
khác;
iii. Điểm nhỏ này
không áp dụng đối với các vụ tranh chấp liên quan đến việc hoạch định ranh giới
các vùng biển đã được một thỏa thuận giữa các bên giải quyết dứt khoát, cũng
như đối với các vụ tranh chấp phải được giải quyết theo đúng một bạn thỏa thuận
hai bên hay nhiều bên có tính chất ràng buộc các bên;
b) Các vụ tranh
chấp liên quan đến các hoạt động quân sự, kể cả hoạt động quân sự của tàu
thuyền và phương tiện bay của Nhà nước được sử dụng cho một dịch vụ không có
tính chất thương mại, và các vụ tranh chấp liên quan đến các hành động bắt buộc
chấp hành, đã được thực hiện trong việc thi hành các quyền thuộc chủ quyền hoặc
quyền tài phán mà Điều 297, khoản 2 và 3, đã loại trừ khỏi thẩm quyền của một
Tòa án;
c) Các vụ tranh
chấp mà Hội đồng bảo an Liên hợp quốc, trong khi thi hành các chức năng của
mình do Hiến chương Liên hợp quốc giao phó có trách nhiệm giải quyết, trừ khi
Hội đồng bảo an quyết định xóa vấn đề trong chương trình nghị sự của mình hay
yêu cầu các bên tranh chấp giải quyết tranh chấp của họ bằng các phương pháp đã
qui định trong Công ước.
2. Một quốc gia
thành viên đã ra một tuyên bố theo khoản 1, thì bất kỳ lúc nào cũng có thể rút
lui tuyên bố đó hay thỏa thuận đưa ra một vụ tranh chấp mà tuyên bố này đã loại
trừ, ra trước bất cứ thủ tục giải quyết nào đã được trù định trong Công ước.
3. Một quốc gia
thành viên đã ra một tuyên bố theo khoản 1, thì không thể đưa ra một vụ tranh
chấp, nằm trong một loại tranh chấp đã bị loại trừ, ra trước một thủ tục nào đó
trong số các thủ tục đã được trù định trong Công ước, nếu không có sự thỏa
thuận của quốc gi thành viên đang tranh chấp với mình.
4. Nếu một quốc gia
thành viên đã ra một tuyên bố theo khoản 1, điểm a, thì bất kỳ quốc gia thành
viên nào khác cũng có thể đưa ra mọi tranh chấp giữa quốc gia đó với quốc gia
đã ra tuyên bố và nằm trong một loại tranh chấp đã bị loại trừ, ra giải quyết
theo thủ tục được định rõ trong tuyên bố này.
5. Một tuyên bố
mới hay một thông báo rút lui một tuyên bố không hề có tác động đến thủ tục
đang áp dụng trước một toàn án xét xử theo đúng điều này, trừ khi các bên có
thỏa thuận khác.
6. Các tuyên bố
hay các thông báo rút lui các tuyên bố nói ở điều này phải được gửi cho Tổng
thư ký Liên hợp quốc để lưu chuyển, Tổng thư ký Liên hợp quốc chuyển các bản
sao các văn kiện đó cho các quốc gia thành viên.
ĐIỀU 299. Quyền
của các bên trong việc thỏa thuận các thủ tục
1. Bất kỳ tranh
chấp nào khi đã bị loại khỏi các thủ tục giải quyết các tranh chấp được trù
định ở Mục 2 theo Điều 297 hoặc bằng một tuyên bố theo đúng Điều 298, thì chỉ
có thể được đưa ra giải quyết theo các thủ tục này qua sự thỏa thuận của các
bên tranh chấp.
2. Không một quy
định nào của mục này đụng chạm đến quyền của các bên tranh chấp trong việc thỏa
thuận sử dụng một thủ tục khác để giải quyết vụ tranh chấp, hay thỏa thuận giải
quyết vụ tranh chấp bằng sự giàn xếp ổn thỏa.
PHẦN
XVI
CÁC
QUY ĐỊNH CHUNG
ĐIỀU 300. Thiện chí và lạm quyền
Các quốc gia thành
viên phải có thiện chí hoàn thành các nghĩa vụ đã đảm nhận theo nội dung Công
ước, và thực hiện các quyền, thẩm quyền và các tự do đã được thừa nhận trong
Công ước, sao cho không để xảy ra tình trạng lạm quyền.
ĐIỀU 301. Việc
sử dụng biển vào những mục đích hòa bình
Trong việc thực
hiện các quyền và làm tròn nghĩa vụ của mình theo đúng Công ước, các quốc gia
thành viên tránh dựa vào việc đe dọa hay sử dụng vũ lực để xâm phạm toàn vẹn
lãnh thổ hay độc lập chính trị của mọi quốc gia hay tránh cùng bất kỳ cách nào
khác không phù hợp với các nguyên tắc của pháp luật quốc tế đã được nêu trong
Hiến chương Liên hợp quốc.
ĐIỀU 302. Việc
tiết lộ các thông tin
Không phương hại
đến quyền của mọi quốc gia thành viên dựa vào các thủ tục giải quyết các vụ
tranh chấp đã được trù định trong Công ước, không qui định nào của Công ước có
thể được giải thích như là bắt buộc một quốc gia thành viên, trong khi thi hành
các nghĩa vụ của mình theo Công ước, cung cấp các thông tin mà việc tiết lộ sẽ
là trái với các lợi ích thiết yếu của mình về mặt an ninh.
ĐIỀU 303. Các
hiện vật khảo cổ và lịch sử được phát hiện ở biển
Các quốc gia có
nghĩa vụ bảo vệ các hiện vật có tính chất khảo cổ hay lịch sử được phát hiện ở
biển; các quốc gia hợp tác với nhau vì mục đích ấy.
Để kiểm soát việc
mua bán hiện vật này, bằng cách áp dụng Điều 33, quốc gia ven biển có thể coi
việc lấy các hiện vật đó từ đáy biển trong vùng nói ở điều đó mà không có sự
thỏa thuận của mình là sự vi phạm các luật và qui định của quốc gia ven biển ở
trên lãnh thổ hay trong lãnh hải của mình, đã được nêu ở Điều 33.
Điều này không
đụng chạm đến các quyền của những người sở hữu có thể được xác nhận, cũng không
đụng chạm đến quyền thu hồi các xác tàu và các qui tắc khác của luật hàng hải
cũng không đụng chạm đến các luật và tập quán về mặt trao đổi văn hóa. Điều này
không làm phương hại đến các điều ước quốc tế khác và các qui tắc của pháp luật
quốc tế liên quan đến việc bảo vệ các hiện vật có tính chất khảo cổ hay lịch
sử.
ĐIỀU 304. Trách
nhiệm trong trường hợp xảy ra thiệt hại
Các qui định của
Công ước liên quan đến trách nhiệm trong trường hợp xảy ra thiệt hại không
phương hại đến việc áp dụng các qui tắc hiện hành và việc lập ra các qui tắc
mới liên quan đến trách nhiệm theo pháp luật quốc tế.
PHẦN
XVII
CÁC
QUI ĐỊNH CUỐI CÙNG
ĐIỀU 305. Ký
kết
1. Công ước để ngỏ
cho các đối tượng sau đây được ký:
Tất cả các quốc
gia;
Nước Na-mi-bi-a do Hội đồng của Liên hợp quốc về
Na-mi-bi-a đại diện;
Tất cả các quốc gia liên kết tự trị đã chọn chế độ này
qua một hành động tự quyết do Liên hợp quốc giám sát và phê chuẩn theo Nghị
quyết 1514 (XV) của Đại hội đồng và có thẩm quyền đối với các vấn đề mà Công
ước đề cập, kể cả thẩm quyền ký các hiệp ước về các vấn đề đó;
Tất cả các quốc gia liên kết tự trị mà theo các văn
bản liên kết, có thẩm quyền đối với các vấn đề mà Công ước đề cập, kể cả thẩm
quyền ký các hiệp ước về các vấn đề đó;
Tất cả các lãnh thổ có quyền tự trị hoàn toàn về nội
trị được Liên hợp quốc thừa nhận, nhưng chưa giành được nền độc lập hoàn toàn
phù hợp với Nghị quyết 1514 (XV) của Đại hội đồng và có thẩm quyền đối với các
vấn đề mà Công ước đề cập, kể cả thẩm quyền ký các hiệp ước về các vấn đề đó;
Các tổ chức quốc tế theo đúng phụ lục IX.
Công ước để ngỏ cho việc ký kết tại Bộ Ngoại giao nước
Gia-mai-ca cho đến ngày 09-12-1984 cũng như tại trụ sở của Liên hợp quốc tại
Niu Oóc từ 1-7-1983 đến 9-12-1984.
ĐIỀU 306. Việc phê chuẩn và việc xác nhận chính thức
Công ước phải được các quốc gia và các thực thể khác
nói ở Điều 305, khoản 1, các điểm b, c, d và e phê chuẩn và được các thực thể
nói ở khoản 1, điểm f, của điều đó xác nhận chính thức theo đúng Phụ lục IX.
Các văn kiện phê chuẩn và xác nhận chính thức được lưu chiểu bên cạnh Tổng thư
ký Liên hợp quốc.
ĐIỀU 307. Việc tham gia
Công ước vẫn để ngỏ cho các quốc gia và thực thể khác
nói ở Điều 305 tham gia. Việc tham gia của các thực thể nói ở Điều 305, khoản
1, điểm f do Phụ lục IX điều chỉnh. Các văn kiện tham gia được lưu chiểu bên
cạnh Tổng thư ký Liên hợp quốc.
ĐIỀU 308. Có hiệu lực
1. Công ước có hiệu lực sau 12 tháng kể từ ngày gửi
lưu chiểu văn bản phê chuẩn hay tham gia thứ 60.
2. Đối với mỗi quốc gia phê chuẩn Công ước hay tham
gia vào Công ước sau khi văn bản phê chuẩn hay tham gia thứ 60 đã được gửi lưu
chiểu, thì Công ước sẽ có hiệu lực vào ngày thứ 30 sau ngày quốc gia này gửi
lưu chiểu văn bản phê chuẩn hay tham gia của mình, với điều kiện phải tuân thủ
quy định ở khoản 1.
Đại hội đồng của Cơ quan quyền lực sẽ nhóm họp vào
ngày mà Công ước bắt đầu có hiệu lực và sẽ bầu ra Hội đồng của Cơ quan quyền
lực. Trong trường hợp Điều 161 không thể thực hiện hoàn toàn đầy đủ, thì Hội
đồng đầu tiên phải được thành lập sao cho phù hợp với những mục tiêu đã nói ở
điều đó.
Các quy tắc, quy định và thủ tục do Ủy ban trù bị soạn
thảo sẽ được tạm thời áp dụng trong khi chờ cho các qui tắc, qui định và thủ
tục đó được Cơ quan quyền lực chính thức thông qua theo đúng Phần XI.
Cơ quan quyền lực và các cơ quan của nó hành động theo
đúng nghị quyết II của Hội nghị luật biển lần thứ III của Liên hợp quốc liên
quan đến các khoản vốn đầu tư ban đầu và với các quyết định của Ủy ban trù bị
để thực hiện nghị quyết này.
ĐIỀU 309. Các bảo lưu và ngoại lệ
Công ước không chấp nhận bảo lưu, cũng không chấp nhận
các ngoại lệ ngoài những điều đã được các điều khác của Công ước cho phép một
cách rõ ràng.
ĐIỀU 310. Các tuyên bố
Điều 309 không ngăn cấm một quốc gia, vào lúc mà quốc
gia này ký hay phê chuẩn Công ước hoặc tham gia vào Công ước, ra các tuyên bố,
bất kể lới văn hay tên gọi của tuyên bố đó thế nào, đặc biệt là nhằm điều hòa
luật lệ và qui định quốc của họ với Công ước, với điều kiện là các tuyên bố này
không nhằm loại trừ hay sửa đổi hiệu lực pháp lý của các qui định của Công ước
trong việc áp dụng chúng vào quốc gia này.
ĐIỀU 311. Mối quan hệ với các công ước và điều ước
quốc tế khác
Giữa các quốc gia thành viên, Công ước có giá trị hơn
các Công ước Giơ-ne-vơ ngày 29 tháng 4 năm 1958 về luật biển.
Công ước không thay đổi chút nào về các quyền và nghĩa
vụ của các quốc gia thành viên bắt nguồn từ các Hiệp ước khác phù hợp với Công
ước và các quyền và nghĩa vụ đó không đụng chạm đến việc các quốc gia khác được
hưởng các quyền mà Công ước dành cho họ, cũng như việc các quốc gia khác thi
hành nghĩa vụ của họ bắt nguồn từ Công ước.
Hai hoặc trên hai quốc gia thành viên tham gia vào
Công ước có thể ký các điều ước sửa đổi hay đình chỉ việc áp dụng các qui định
của Công ước và chỉ áp dụng vào các mối quan hệ giữa họ với nhau, với điều kiện
là các điều ước này không đụng đến một trong các qui định Công ước mà việc
không tôn trọng sẽ không phù hợp với việc thực hiện nội dung và mục đích của
Công ước, và cũng với điều kiện là các điều ước này không đụng chạm đến việc áp
dụng các nguyên tắc cơ bản đã được nêu trong Công ước, cũng không đụng chạm đến
việc các quốc gia khác hưởng và thi hành các quyền hay nghĩa vụ bắt nguồn từ
Công ước.
Các quốc gia thành viên dự định ký kết một điều ước
nói ở khoản 3 cần thông báo cho các bên khác, qua trung gian của người lưu
chiểu Công ước, ý định ký kết điều ước của mình cũng như những sửa đổi hay việc
đình chỉ áp dụng các qui định của Công ước mà điều ước đó trù định.
Điều này không đụng chạm đến các điều ước quốc tế được
phép hay được duy trì một cách rõ ràng theo các điều khác của Công ước.
Các quốc gia thành viên thỏa thuận rằng không thể có
sự sửa đổi nào đối với nguyên tắc cơ bản về di sản chung của loài người đã được
nêu lên ở Điều 136 và các quốc gia này sẽ không tham gia vào một điều ước nào
vi phạm nguyên tắc ấy.
ĐIỀU 312. Sửa đổi
Sau một thời gian 10 năm kể từ ngày Công ước có hiệu
lực, mọi quốc gia thành viên có thể, qua văn bản gửi lên Tổng thư ký Liên hợp
quốc, đề nghị các điểm sửa đổi đối với Công ước về những điểm cụ thể, trong
chừng mực mà các điểm sửa đổi đó không nhằm vào các hoạt động tiến hành trong
Vùng, và đề nghị triệu tập một hội nghị có nhiệm vụ xem xét các điều sửa đổi
được đề xuất như vậy. Tổng thư ký chuyển văn bản này cho các quốc gia thành
viên. Nếu trong 12 tháng sau ngày chuyển văn bản, có ít nhất là một nửa số quốc
gia thành viên trả lời một cách thuận lợi cho yêu cầu này, thì Tổng thư ký
triệu tập hội nghị.
Trừ khi Hội nghị sửa đổi có quyết định khác, Hội nghị
đó sẽ áp dụng thủ tục ra quyết định đã được dùng trong hội nghị luật biển lần
thứ III của Liên hợp quốc. Hội nghị phải cố gắng hết sức để đi đến thỏa thuận
về các điểm sửa đổi bằng consensus (thỏa thuận) và hội nghị chỉ được tiến hành
bỏ phiếu về vấn đề khi mọi cố gắng để đạt tới một sự thỏa thuận không còn nữa.
ĐIỀU 313. Việc sửa đổi bằng thủ tục đơn giản hóa
Qua văn bản gửi lên cho Tổng thư ký Liên hợp quốc, mọi
quốc gia thành viên có thể đề nghị một điều sửa đổi đối với Công ước, không
phải là một điều sửa đổi nhằm vào các hoạt động tiến hành trong Vùng, và yêu
cầu rằng điều sửa đổi đó được thông qua theo thủ tục đơn giản hóa được trù định
trong điều này, không cần triệu tập một hội nghị để xem xét điều sửa đổi đó.
Tổng thư ký Liên hợp quốc chuyển văn bản đó cho tất cả các quốc gia thành viên.
Nếu trong 12 tháng sau ngày chuyển văn bản này, một
quốc gia thành viên có ý kiến phản đối điều sửa đổi đã được đề nghị hay phản
đối ý kiến đề xuất nhằm làm cho điều sửa đổi đó được thông qua theo thủ tục đơn
giản hóa, thì điều sửa đổi coi như bị bác bỏ. Tổng thư ký Liên hợp quốc thông
báo ngay việc đó cho tất cả các quốc gia thành viên.
Nếu 12 tháng sau ngày chuyển văn bản, không có một
quốc gia thành viên nào có ý kiến phản đối điều sửa đổi đã được đề xuất hay
phản đối đề nghị nhằm làm cho điều đó được thông qua theo thủ tục đơn giản hóa,
thì điều sửa đổi được đề xuất coi như được chấp thuận. Tổng thư ký thông báo
cho tất cả các quốc gia thành viên việc chấp nhận điều sửa đổi đã được đề xuất
này.
ĐIỀU 314. Những điều sửa đổi đối với các qui định của
Công ước chỉ liên quan đến các hoạt động tiến hành trong Vùng
1. Qua biên bản gởi lên Tổng thư ký của Cơ quan quyền
lực, mọi quốc gia thành viên có thể đề nghị một điều sửa đổi đối với các qui
định của Công ước chỉ liên quan đến các hoạt động tiến hành trong Vùng, kể cả
các qui định của Mục 4 thuộc Phụ lục VI. Tổng thư ký gởi văn bản này cho tất cả
các quốc gia thành viên. Một khi Hội đồng chuẩn y, điểm sửa đổi được đề xuất
phải được Đại hội đồng chuẩn y. Đại biểu của các quốc gia thành viên có toàn
quyền để xem xét và thông qua điều sửa đổi được đề xuất. Đề nghị sửa đổi, như
đã được Hội đồng và Đại hội đồng chuẩn y, coi như được chấp thuận.
2. Trước khi chuẩn y một điều sửa đổi theo đúng khoản
1, Hội đồng và Đại hội đồng phải biết chắc rằng điều sửa đổi không đụng chạm
đến hệ thống thăm dò và khai thác các tài nguyên của Vùng trong khi chờ đợi
triệu tập cuộc hội nghị xét duyệt lại theo đúng Điều 155.
ĐIỀU 315. Những điều sửa đổi: ký, phê chuẩn, tham gia
và các văn bản chính thức
Những điều sửa đổi đối với Công ước khi được thông
qua, được để ngỏ cho các quốc gia thành viên ký kết tại trụ sở của Liên hợp
quốc ở Niu Oóc, trong thời hạn là 12 tháng kể từ ngày thông qua các điều sửa
đổi này, trừ khi các điều sửa đổi đó có qui định khác.
Các Điều 306, 307 và 320 được áp dụng cho tất cả các
điều sửa đổi đối với Công ước.
ĐIỀU 316. Các điều sửa đổi có hiệu lực
Đối với các thành viên đã phê chuẩn hay đã tham gia
công ước, ngoài những điều đã nói ở khoản 5, sẽ có hiệu lực vào ngày thứ ba
mươi tiếp sau việc gửi lưu chiểu các văn bản phê chuẩn hay tham gia của hai
phần ba số quốc gia thành viên hay của 60 quốc qia thành viên, số lượng nào cao
nhất sẽ được sử dụng. Các điều sửa đổi không đụng chạm đến việc các quốc gia
khác được hưởng các quyền mà Công ước dành cho họ, cũng không đụng chạm đến
việc họ thi hành các nghĩa vụ bắt nguồn từ Công ước.
Một điều sửa đổi có thể trù định rằng, việc nó có hiệu
đòi hỏi phải có một số lượng quốc gia phê chuẩn hay tham gia cao hơn số lượng
mà điều này đòi hỏi. Đối với một quốc gia đã phê chuẩn một điều sửa đổi nói ở
khoản 1 hay đã tham gia vào điều sửa đổi đó sau ngày số lượng các văn bản phê
chuẩn hay tham gia cần thiết đã được lưu chiểu, điều sửa đổi này có hiệu lực
vào ngày thứ ba mươi tiếp sau ngày nộp lưu chiểu văn bản phê chuẩn hay tham gia
của quốc gia thành viên đó.
Bất kỳ quốc gia
nào khi trở thành thành viên của Công ước, sau khi một điều sửa đổi có hiệu lực
theo đúng khoản 1, nếu không biểu thị một ý định khác, thì được coi như là:
Thành viên của
Công ước đã được sửa đổi; và
Thành viên của
Công ước không được sửa đổi đối với mọi quốc gia thành viên không bị ràng buộc
bởi các điều sửa đổi.
Các điều sửa đổi
chỉ nhằm vào các hoạt động tiến hành trong Vùng và các điều sửa đổi đối với Phụ
lục VI sẽ có hiệu lực đối với tất cả các quốc gia thành viên sau ngày có ba
phần tư số quốc gia thành viên nộp lưu chiểu các văn bản phê chuẩn hay tham
gia.
Mọi quốc gia khi
trở thành thành viên của Công ước, sau khi các điều sửa đổi nói trong khoản 5
có hiệu lực được coi như thành viên của Công ước đã được sửa đổi.
ĐIỀU 317. Việc
từ bỏ
Một quốc gia thành
viên có thể từ bỏ Công ước, qua thông báo viết gửi lên cho Tổng thư ký Liên hợp
quốc, và nói rõ những lý do của việc từ bỏ. Dù quốc gia thành viên này không
nêu rõ lý do đó, thì việc từ bỏ vẫn không vì thế mà vô hiệu lực. Việc từ bỏ có
hiệu lực sau một năm kể từ ngày nhận được thông báo, trừ khi trong thông báo có
trù định một thời hạn chậm hơn.
Việc từ bỏ cũng
không làm cho một quốc gia tránh khỏi các nghĩa vụ về mặt tài chính và hợp đồng
mà họ phải đảm nhận, khi mà quốc gia này còn là thành viên của Công ước, và
việc từ bỏ cũng không ảnh hưởng đến các quyển, nghĩa vụ hay các địa vị pháp lý
của quốc gia này bắt nguồn từ việc áp dụng Công ước, trước khi Công ước không
còn hiệu lực đối với quốc gia đó.
Việc từ bỏ không
hề ảnh hưởng chút nào tới bổn phận của mọi quốc gia thành viên phải làm tròn
mọi nghĩa vụ đã nêu trong Công ước, mà quốc gia này phải tuân thủ theo pháp
luật quốc tế độc lập với Công ước.
ĐIỀU 318. Quy
chế của các phụ lục
Các phụ lục là bộ
phận hoàn chỉnh của Công ước, một sự viện dẫn Công ước cũng là một sự viện dẫn
các phụ lục của nó và sự viện dẫn một phần của Công ước cũng là sự viện dẫn các
phụ lục có liên quan đến phần đó, trừ trường hợp có quy định trái ngược rõ
ràng.
ĐIỀU 319. Người
lưu chiểu
Tổng thư ký Liên
hợp quốc là người lưu chiểu Công ước và các điều sửa đổi có liên quan đến công
ước.
Ngoài chức năng
của người lưu chiểu, Tổng thư ký Liên hợp quốc còn:
Báo cáo cho tất cả
các quốc gia thành viên, Cơ quan quyền lực và các tổ chức quốc tế có thẩm quyền
về các vấn đề mang tính chất chung xuất hiện liên quan đến Công ước.
Thông báo cho Cơ
quan quyền lực các văn bản phê chuẩn, xác nhận chính thức và tham gia Công ước
và các điều sửa đổi đối với Công ước, cũng như các văn bản từ bỏ các Công ước;
Thông báo cho các
quốc gia thành viên các điều ước được ký kết theo đúng với Điều 311, khoản 4;
Chuyển cho các
quốc gia thành viên các điều sửa đổi đã được thông qua theo đúng Công ước để
phê chuẩn hay tham gia;
Triệu tập các cuộc
họp cần thiết của các quốc gia thành viên theo đúng Công ước.
3. a) Tổng thư ký
cũng chuyển cho các quan sát viên nói ở Điều 156:
Các báo cáo nói ở
khoản 2, điểm a;
Các thông báo nói
ở khoản 2, điểm b và c;
Văn bản các điểm
sửa đổi nói ở khoản 2, điểm d với tính chất để thông báo.
b) Tổng thư ký
cũng mời các quan sát viên này tham gia các hội nghị của các quốc gia thành
viên nói ở khoản 2 điểm e với tư cách là quan sát viên.
ĐIỀU 320. Các
văn bản chính thức
Nguyên bản của
Công ước bằng tiếng Anh, Ả Rập, Trung Quốc, Tây Ban Nha, Pháp, và Nga đều có
giá trị chính thức như nhau và được lưu chiếu bên cạnh Tổng thư ký Liên hợp
quốc, theo Điều 305, khoản 2.
Để làm tin, các
đại diện toàn quyền ký dưới đây là những người được phép hợp thức ký vào Công
ước.
Làm tại Môn-tê-gô Bay ngày mồng Mười tháng Mười hai năm
Một ngàn chín trăm tám mươi hai.